Brett Atwater. Duke
U,
Durham, NC.
How to
program ICD to maximize device longevity and reduce cost.
TT:
các kết quả nghiên cứu đã được báo cáo trước đây về thời gian hoạt động
ICD không áp dụng với các thế hệ ICD
mới. Ngoại trừ Medtronic vẫn tiếp tục dùng pin 1,0 Ah, tất cả các công
ty khác đều dùng pin lớn hơn so với các máy cách đây 6 năm! Cty Boston
Scientific đã có bài quảng cáo chế nhạo Medtronic về điểm pin của
Medtronic
đã không thay đổi, tiếp tục là 1 Ah, trong khi các máy khác đa tăng
năng lượng
pin!

Trong
hình bên phải, chúng ta thấy là khoảng 53% năng lượng pin được dùng
trong quản lý máy. Đây là lý do tại sao, thời gian hoạt động tùy thuộc
điện lượng của pin rất nhiều. Nhưng thời gian "treo tường" (không hoạt
động) của máy có thể gần gấp đôi thời gian "bình thường" vì không có
tạo nhịp, chỉ nạp điện tối thiểu, và không có liên lạc với bên ngoài.
Vì vậy khi so
sánh thời gian hoạt động ICD, cần phải tìm hiểu cơ chế hoạt động đi đôi
với thời gian đó.
Atwater đặc biệt quan tâm đến chức năng lập
trình vô tuyến (wireless) trong các máy thế hệ mới. Theo Atwater dùng
chức năng vô
tuyến rất hao pin:
- 15 phút dùng vô tuyến = 1 ngày pin bình thường
- 3 giờ cấy một máy CRT = 12 ngày pin
- nếu quên bấm "end session", bộ phận vô tuyến sẽ tiếp tục
hoạt động 60 phút sau sử dụng cuối cúng = 4 ngày pin.

Remote
Monitoring, theo dõi từ xa (ở VN chỉ có Home Monitoring của Biotronik
hoạt động được), hao pin (giảm thời gian hoạt động khoảng 2 tháng)
nhưng có thể giảm điều trị lầm (sốc lầm) nên sẽ có lợi về phương diện
thời gian hoạt động.

Nên cố gắng dùng ATP, bớt sốc. Bảng bên phải là kết quả MADIT-RIT.
Atwater
có phê bình về ghi lại tiền sử điện tim. Các ICD Medtronic sẽ bị giảm
thời gian hoạt động đáng kể khi ghi lại tiền sử điện tim. Trong các máy
khác, tiền sử điện tim chỉ giảm thời gian hoạt động khoảng 11 ngày, nên
chức năng này mặc định ON.
Chức năng OptiVol của Medtronic sẽ giảm tuổi thọ ICD 3-4 tháng, không
nhiều.
Tạo
nhịp 7 ngày, tương đương với 1 ngày pin.
Nên tận dùng các chương
trình giảm tạo nhịp thất. Nếu phải tạo nhịp thì dùng mức an toàn tối
thiểu, hoặc dùng các chương trình điều chỉnh tự động biên độ xung.
Late breaking sessions
Leslie Saxon. USC, Los Angeles, CA. I
CD programming trends and
relationship to survival. The ALTITUDE study group.
Nghiên
cứu dùng hệ thống theo dõi từ nhà của Boston Scientific, LATITUDE.
217,284.000 BN đã có 195.000 sốc. Khác với nghiên cứu năm 2012 ghép mỗi
BN với điều trị với BN không điều trị với bệnh lý tương tự nhau, nghiên
cứu này hổn tạp nên kết quả không rõ.
Theo
kết quả trên khi gặp trường hợp ATP không thành công mà còn làm loạn
nhịp nhanh lên, cần phải điều chỉnh máy sớm! Do đó phải cần theo dõi
chặc chẽ các điều trị. BN có nhiều điều trị nên đăng ký chương trình
theo dõi từ xa (ở VN chỉ có Home Monitoring từ Biotronik với các ICD
dòng Lumax, Iforia) để có thể điều chỉnh điều trị sớm.
Christof
Kolb. Munich, Germany.
Lower occurance of inappropriate
shock in dual chamber ICD therapy reached with optimized discrimination
and minimized Vp.
Đây
là nghiên cứu về chương trình phân biệt VT/SVT PARAD+ và chương trình
giảm tạo nhịp thất SafeR 60 n/p trong các ICD của Sorin. Các BN đều
được cấy máy 2 buồng. Nghiên cứu là so sánh chức năng máy 1 buồng (VVI
40 n/p) và

chức
năng máy 2 buồng (PARAD+, SafeR).
PARAD+ hiệu quả giảm sốc lầm.
Chương
trình PARAD+ của Sorin và SMART Detection của Biotronik có nhiều điểm
giống nhau và khác hẵn các chương trình của Medtronic, St Jude, Boston
Scientific. Cả 2 đều được thiết kế không dựa theo chương trình trong
máy 1 buồng. Chương trình phân biệt VT/SVT của các công ty Mỹ, vì muốn
được FDA chấp thuận sớm, chỉ là những cải tiến của chương trình cơ bản
trong ICD 1 buồng. Biotronik và Sorin đã phải trải qua những chương
trình nghiên cứu dài để chứng minh sự an toàn cho cơ quan FDA mà các
công ty Mỹ đã không phải chịu.
Các BN được chọn không có chỉ định tạo nhịp (như trong các nghiên cứu
DAVID, ... MVP).
Kết
quả về tạo nhịp ở trên không có gì bất ngờ vì SafeR tương tự MVP nhưng
không có chống chỉ định như MVP (MVP chuyển qua AAIR quá nhanh, và
chuyển trở lại DDDR quá chậm, và lại có tạo nhịp thất hơi bất thường).
Vấn đề quan trọng trong giảm tạo nhịp thất không phải là mức tạo nhịp
mà là mức suy tim. Đừng có lầm mục đích (giảm suy tim) và công cụ (giảm
tạo nhịp).
Không có khác biệt về tử vong trong 27 tháng theo dõi.
Posters
Peribert Pavaci,
et al. Munich, Germany.
Should
we consider
antitachycardia pacing in patients at high risk of polymorphic VT and
VF?
Nghiên
cứu 132 BN được theo dõi 55 tháng: 65 BN bện cơ tim phì đại, 39hội
chứng QT kéo dài, 21 hội chứng Brugada, 5 rung thất tự phát
(idiopathic), 1 cathcholaminergic polymorphic VT, 1 early
repolarization syndrome. 28 (21%) BN đã có 445 cơn loạn nhịp thát: 385
VT đơn dạng, 27 VT đa dạng, 33 VF. ATP đã tành công phá 383 VT đơn
dạng, tỷ lệ 99%, 7 (29%) VT đa dạng, Chỉ 1 ca tăng nhịp xảy ra. Chỉ có
1 cơn ngất có thể là do ATP đình trễ điều trị bằng sốc. Tóm lại lập
trinh ATP trong nhóm BN với VT đa dạng và VF rất hữu hiệu giảm sốc,
390/445= 88%.
Joachim Seegers,
et al. Goettingen, Germany.
Incidence
of appropriate ICD shock after generator replacement without preceding
shock: how necessary is the continued ICD therapy?
Với
theo dõi 5,7 năm, 411/1535 (27%) BN đã có sốc với ICD dầu tiên. 402 BN
không có sốc đã thay máy sau 4,7 năm. 52/402 (13%) đã bị sốc với máy
thứ 2. 91 BN chưa tùng bị sốc đã thay máy lần 2 sau 4,3 năm. 13/91
(14%) đã bị sốc lần đầu với máy thứ 3. 19 BN đã được cấy máy thứ 4 sau
3,7 năm. Chỉ 1/19 (5%) BN bị sốc lần đầu với máy thứ 4.
Như vậy phải cần
14 năm không sốc, khoảng 2 đời ICD thế hệ mới, thì mới chắc là không
cần ICD nữa vì chưa từng bị sốc??
Faisal Merchant,
et al. Emory U, Atlanta, GA.
Incidence
of defibrillator shocks after elective generator exchange following
uneventful first battery life.
Nghiên
cứu ALTITUDE theo dõi 35.954 BN đã thay ICD. Nhóm A: 23.735 (66%) đã
không bị sốc. Nhóm B: 12219 (34%) đã bị một sốc với máy đầu
tiên. Các BN nhóm A thường lớn tuổi hơn (71 so với 68 tuổi),
và
nhiều phái nữ (29% so với 22% nữ). Sốc vì loạn nhịp > 200 n/p
xảy
đến 10% nhóm A và 18% nhóm B 5 năm sau thay máy.
Cũng như bài của Seeger, đến đời máy thứ 2 số BN bị sốc lần đầu cũng
đáng kể (10%).
John Jennings,
et al. U Alabama, Brimingham, AL
Pacemaker
and ICD implantation with uninterrupted dabigatran comparison to
uninterrupted warfarin.
So
với warfarin dabigatran có ít biến chứng chảy máu và hematoma hơn. Tiếp
tục điều trị với cả 2 loại thuốc chỉ đưa đến mức biến chứng
chảy máu thấp: dabigatran: 1/48 (2,1%) bị pericardial effusion với
dabigatran; 9/145 (4,6%) bị hematoma với warfarin.
Antoine
Roux. Clermont-Ferrand, France.
Brugada syndrome: the Quebec
experience.
Với
37 BN được cấy ICD, với theo dõi 61 tháng, chỉ có 7 BN được điều trị (5
sốc, 2 ATP).Tất cả đều đã có triệu chứng (ngất=6, đột từ=1). Tất cả các
BN không triệu chứng đều không có điều trị. 15 BN (41%) đã bị 24 biến
chứng liên quan đến ICD. Biếnn chứng nhiều nhất liên quan đến dây điện
cực.
Frederic Sacher,
et al. Bordeaux, France.
Seven
years outcome ò ICD recipients in Brugada syndrome.
ICD
được cấy trong 165 BN không có triệu chứng, 182 BN với ngất, 31 với đột
tử. Dưới đây là kết quả theo dõi 77 tháng. 46 BN (12%) có điều trị
chuẩn, 91 BN (24%) đã có sốc lầm (trung bình 4 sốc) do dây hư (43 BN),
SVT (21 BN), T wave oversensing (14 BN).
Takashi Uchiyama,
et al. Ibaraki, Japan.
Long-term
outcome after implantable cardioverter defibrillator in patients with
Brugada syndrome - results from 5 year follow-up.
39
BN được cấy ICD được theo dõi 66,1 tháng. 29 BN thuộc diện primary
prevention, và đã có loạn nhịp khi thử ngiệm điện sinh lý. 10 BN đã có
triệu chứng, nhóm secondary prevention. Chỉ có 5 BN có sốc chuẩn, 4
thuộc nhóm 1, và 4 thuộc nhóm 2. Trong khi đó 9 BN đã bị sốc lầm, 2 BN
bị hư dây điện cực, 2 BN bị nhiễm trùng, và 1 BN bị cardiac
tamponade.
Kết luận
Tạo nhịp/ Chọn máy
- BN
ICD cần tạo nhịp thì nên cấy ICD 2 buồng. Trong trường hợp BN tình nghị
chronotropic incompetence (không tăng nhịp tim thich hợp) thì nên thử
gắng sức.
- ICD 2 buồng cần có chương trình giảm tạo nhịp thất. Không
nên cấy máy không có chương trình giảm tạo nhịp thất
- Chương trình MVP có chống chỉ định khi PR >230 ms.
Chỉ nên dùng với các BN với PR ngắn
- Nếu tạo nhịp thất >40%, nên nghĩ đễn CRT-D.
Lý do là BN ICD rất nhạy suy tim. Do đó trong trường hợp blôc nhĩ-thất
hoàn toàn nên cấy CRT-D. Đây là suy nghĩ ở Âu-Mỹ với bảo hiểm y-tế chi
trả hầu hết chi phí. Đối với BN VN, thì có hướng giải quyết khác. Hãy
e-mail chúng tôi.
- Với các BN với bệnh sử có loạn nhịp trên thất, hoặc tình
nghi loạn nhịp trên thất, nên cấy máy 2 buồng. Ngoài ra cần tìm hiểu
hiệu quả chương trình phân biệt VT/SVT của máy.
- Trong nghiên cứu SCD-HeFT (2005), đã có 829 BN được cấy
ICD 30 J với
điều trị chỉ sốc thôi, được theo dõi trung bình 45,5 tháng. Đã không có
BN nào tử
vong vì máy không thành công can thiệp dứt cơn loạn nhịp. Do
đó, máy 30
J an toàn.
- Phải cần 14 năm không sốc mới không cần tiếp tục thay ICD?
- Vì
ATP công hiệu phá các cơn loạn nhịp, ngay cả trong trường hợp BN với
"chỉ" rung thất, thí dụ BN với HC Brugada, nên chọn máy với chức năng
ATP trong vùng VF.
- ICD với pin lớn có thời gian hoạt động dài hơn.
- Cẩn thận với các thời gian hoạt động được các công ty
cung cấp nêu ra. Cần hiểu quy chế hoạt động thì mới so sánh được.
- Tạo nhịp sẽ giảm tuổi thọ máy nhiều, nên càng phải lưu ý
đến điện lượng pin với các BN này.
- Thời
gian hoạt động dài chẳng những giảm chi phí cho BN mà nhờ giảm số thay
máy sẽ giảm biến chứng cho BN, vì mỗi lần thay máy là BN có nguy cơ
biến chứng cao.
- Cẩn thận khi dùng chức năng wireless để điều chỉnh máy.
Rất hao pin.
- Theo dõi từ xa (remote monitoring) có giảm tuổi thọ của máy
vài tháng nhưng về lâu dài tăng tuổi thọ máy vì giảm điều trị lầm.
- Các
ICD Medtronic sẽ rất hao pin ghi lại tiền sử điện tim, một chức năng
tối cần thiết để chẩn đoán các cơn loạn nhịp. Mức giảm tuổi thọ máy
không đáng kể rong các ICD của Biotronik, St Jude.
- T-wave
oversensing là một quan tâm. Nên chọn máy có thể dùng bộ lọc để ép sóng
T. Các ICD Medtronic không thể điều chỉnh nhận cảm được. Các máy đời
mới St Jude có bộ lọc để ép sóng T. Tất cả các ICD Biotronik đều có bộ
lọc để ép sóng T.
- BN hội chứng Brugada (ECG týp 1) không có
triệu chứng (ngất, đột tử) có mức điều trị rất thấp, dù cho có thử
nghiệm điện sinh ly gây loạn nhịp! Không nên cấy máy?
Cấy máy/ Thay máy
- Thay máy là một thủ thuật có nguy cơ cao nhiễm
trùng, sút dây điện cực.
- Trước khi thay máy, cần tìm hiểu về các dây điện cực đã
được cấy trước đó và đánh giá nguy cơ nghẽn tĩnh mạch.
- Các BN đang uống warfarin nến tiếp tục (kiểm tra là INR
<
3 trước khi mổ), không nên chuyển sang heparin. Áp dụng chính sách này
với dabigatran và aspirin. Với aspirin có nguy cơ cục động được tạo ra
trong thời kỳ mới ngưng, nên tiếp tục tốt hơn.
- Với máy ICD 40 J, có thể không cần làm DFT test, mà chỉ cần
lập trình sốc rung thất bắt đầu từ 30 J.
- Nếu sóng R < 5 mV, nên làm DFT test để kiểm tra
sensing.
- Với các ICD <40 J, nên áp dụng DFT test đã được dùng
trong SCF-HeFT: lập trình sốc 20 J, 30 J, n*max, rồi làm test. Nếu 20 J
thành công thì lập trình 10J, 20J, n*max. Lập trình sốc thành công + 10
J, và tăng đến sốc tối đa.
- Với các ICD 40 J, nên chuyển sang dùng dây sốc với 1 cuộn
sốc ở thất? Khi cần rút dây điện cực thì dễ hơn.
- Trừ trường hợp cấy ICD ở vai phải.
- Dùng chlorhexidine-alcohol thay vì povidone-Iodine.
Lập trình ICD
- Sốc cứu BN ... nhưng giảm tuổi thọ BN!
- Nên
tận dụng điều trị với ATP, ngay cả với các bệnh lý "chỉ có" rung thất
hoặc VT đa dạng (polymorphic), như HC Brugada, QT kéo dài, bệnh cơ tim
phì đại, v.v. ... Do đó nên chọn các máy với ATP trong vùng
VF.
- ATP thành công là tránh giảm tuổi thọ BN!
- Lập
trình phát hiện: VF 200 n/p, 24/30; VT chỉ theo dõi từ 170 n/p, hoặc
bao gồm nhịp nhanh thất đã được ghi lại trước đó, dùng NID=30.
- Nên tận dụng các chức năng phân biệt VT/SVT.
- nên
cẩn thận với các detection enhancement được thêm vào chương trình cơ
bản. Các chương trình này tăng độ đặc hiệu nhưng giảm độ nhạy do đó có
thể có cơn VT không được điều trị!
- Các chương trình nghiên cứu
thường dùng BN primary prevention. BN VN thương là secondary
prevention, nên cần phải cẩn thận khi áp dụng kết quả các nghiên cứu
này.