NWSPIBanner
TamThu

powered by FreeFind
Liên lạc với chúng tôi (bấm vào icon)
Skype
Skype Me™!
Yahoo Messenger
YM message
E-Mail
E-mail
Nhắn tin: 0903 739 920
Pro MRI
Chi tiết bên dưới trong khung này
Ad1

Ad2

Ad3

Ad4

Ad5

Ad6

Ad7

Ad8

English Home Page


Trang chủ


Tóm tắt thông tin


Hướng dẫn cho bệnh nhân


Máy tạo nhịp tim


Điều trị suy tim bằng máy tạo nhịp


Máy tạo nhịp tạm thời


Máy phá rung tự động


Máy thăm do điện sinh lý tim


Cẩm nang cho bệnh nhân


Máy dự đoán đột tử


Danh mục website


Liên lạc:
lienlac@
tamthuvn.
com

Tủ sách tư liệu khoa học
Trang dành cho bác sĩ tim mạch

ICD - HRS 2013

Chúng tôi xin sơ lược một số các buổi thuyết trình tại HRS 2013 về máy phá rung

Mini course: ICD implant complications and reducing risks 

Marye Gleva, Washington U, St Louis, MO. How to avoid complications during initial ICD implantation or ggenerator replacement.
Thay máy là một thủ thuật có nhiều nguy cơ biến chứng (morbidity) cho BN. Các biến chứng thường xảy ra theo thứ tự là: dây bị sút (dislodgement/ malfunction) từ 1% (không thay/thêm dây điện cực) đến 7,8% (dự định sẽ thay/thêm dây, thường là nâng cấp lên CRT), trung bình 5,5%; kế đến là hematoma 0,7-1,5%; pneumothorax 0 - 0,8%; nhiễm trùng 0,8%. Nguyên nhân biến chứng có thể là do
  • disruption fibrous tissue support, 
  • mechanical from electrocautery, instruments, or movement stress
  • insulation degradation
Khuyên nên kiểm tra tình trạng các dây điện cực trước khi mổ: xem hồ sơ, kiểm tra x-quang, CT. Các dây điện cực sốc với 2 cuộn sốc khó rút ra hơn. Phải Heparinnhẹ tay với các dây điện cực!

Một số lớn hematoma do dùng heparin. Nếu BN đang được điều trị với warfarin (AC) thì nên tiếp tục, thay vì chuyển qua heparin. Dùng dabigatran OK. Aspirin (ASA) cũng tương tự.

Nếu gặp nghẽn tĩnh mạch thì hãy thử venoplasty, nong tĩnh mạch với dilator hoặc với bóng.

Đề nghị dùng chlorhexidine-alcohol thay vì povidone-Iodine đế sát trùng ngoài vùng mổ.

Paul Varosy. U Colorado, Denver, CO. Implantation risks and device type: comparison of single versus dual chamber devices.
Ở Mỹ 62% các ICD được cấy là ICD 2 buồng. Các lý do thường được đưa ra để giải thích chọn máy 2 buồng
  • phân biệt nguồn gốc cơn loạn nhịp (VT, SVT). Các chương trình nghiên có kết quả vô định.
    • Trần Thống: điều này ngược lại với kinh nghiệm của chính bản thân chúng tôi. Theo phân tích của chúng tôi, các nghiên cứu ở Mỹ thường có kết quả vô định vì dùng các ICD các công ty Mỹ. Vì các chương trình phân biệt các công ty Mỹ không được hiệu quả, nên tất cả đều có thông số "sustained VT" để kích hoạt điều trị sau khi nhịp thất cao một thời gian. Do đó nếu SVT kéo dài, thì sẽ bị điều trị! Các máy của Biotronik (CHLBĐ) và Sorin (Pháp) thì có chương trình phân biệt hiệu quả, với độ nhạy gần 100% và độ đặc hiệu >90%. Do đó không cần dung "Sustained VT". Vì vậy mà các nghiên cứu bên Âu-châu có kết quả là các chương trình phân biệt hiệu quả giảm điều trị không cần thiết. Tại HRS 2013, Christof Kolb có bài báo cáo về các ICD của Sorin với kết quả là  ICD 2 buồng hiệu quả tránh điều trị lầm (2 buồng 4,3%, 1 buồng 10,3%).
    • Một lý do nữa là đa số BN Mỹ là thuộc loại primary prevention với chỉ định do suy tim, không phải do loạn nhịp. Do đó ty lệ SVT cũng thấp.
    • BN VN là thuộc secondary prevention. Các BN này thường đã được cứu sống sau một cơn đột tử nên thường hay có SVT. Ngay cả BN với hội chứng Brugada cũng có tỷ lệ rung nhi cao hơn bình thường
  • có chỉ định tạo nhịp do suy nút xoang hoặc do blốc nhĩ-thất, hoặc do tác động phụ của thuốc chống loạn nhịp đưa đến nhịp chậm. Khoảng 1/2 các BN được cấy ICD 2 buồng có chỉ định này.
Cấy máy 2 buồng tăng nguy cơ biến chứng. Ngoài ra nếu không đạt mức giảm tạo nhịp thất (trong các BN có dẫn truyền nhĩ-thất tốt), thi tạo nhịp 2 buồng sẽ hại BN, giảm thời gian hoạt động của máy, tăng xác suất dây hư, sẽ làm ca rút dây khó hơn.
    • Trân Thống. Cty Biotronik đã rất thành công ở Mỹ với máy Lumax 540 VR-T DX và Lumax 740 VR-T DX vì là ICD chỉ cần 1 dây điện cực với các chức năng của máy 2 buồng (tạo nhịp thì giới hạn VDDR) cho BN với nút xoang tốt.

Kristen Patton. U Washington, Seattle, WA. Risk of defibrillation testing: is it worth it?
Lý do tìm ngưỡng phá rung, DFT test (DeFibrillation Threshold), là tại các máy trong thập niên 199x không đạt mức tin cậy cao. Bây giờ các máy có mức tin cậy cao là sẽ phát hiện loạn nhịp và phát sốc, và với các sốc biphasic (2 pha) có hiệu quả cao.

ICD test
Patton, HRS2013.Kết quả làm DFT test.

Trong nghiên cứu 19.067 BN ở Canada các năm 2000-2006 tìm DFT đã gây 3 (0,016%) tử vong, 5 (0,026%) đột quỵ, 27 (0,14%) cấp cứu kéo dài. Xác suất thấp nhưng tai hại.

SCD-HeFTTrong nghiên cứu SCD-HeFT, tìm DFT với các máy 30 J dùng sốc 20 J, kế đến 10 J nếu 20 J thành công, và 30J nếu 20 J thất bại (như vậy là lập trình sốc 20 J, 30 J, n* 30J). Nếu 20 J thành công thì làm lại test với lập trình 10J, 20J, n*30J. Thành công hay thất bại sẽ ngừng sau 2 sốc và máy sẽ được cấy và lập trình "ngưỡng" + 10J hoặc 30J cho sốc đầu. Blatt (2008) báo cáo là trong SCD-HeFT, trong 717 BN, tìm ngưỡng phá rung thành công 100% với năng lượng sốc ≤30 J,  97,8% với ≤20J, 67,5% với ≤10 J. Và sau đó kiểm tra các điều trị thì có kết quả dưới đây. Không có BN nào tử vong do loạn nhịp!

Shock Efficienty
Patton. HRS 2013. Sốc đầu tiên thành công 83%.

Các yếu tố nào ảnh hưởng ngưỡng cao?

high DFT
Patton. HRS 2013. Yếu tố đưa đến ngưỡng cao.

Chống chỉ định tìm ngưỡng phá rung.

Contraindication for DFT test
Patton, HRS 2013. Chống chỉ định.

Như vậy nếu dùng sốc 30J, chỉ có khoảng 5% BN là sẽ không có kết quả tốt. Nhưng không có nghĩa là khi bị loạn nhịp, sốc 30J không thành công phá cơn loạn nhịp. Lý do là tại loạn nhịp tự phát khác loạn nhịp được tạo nên, thường có nhịp cao hơn. Tuy nhiên cũng nên kiểm tra ngưỡng các BN với sóng R <5 mV (~ 5%) và các BN đã có nhiều cơn loạn nhịp.

Henry Hsia. UCSF, San Francisco, CA. Management of the patient with a high DFT.
DFT là một thông số ngẫu nhiên, do đó không thể đo chính xác được. Cần điều chỉnh trường hợp BN có ngưỡng cao bằng cách
  • Thay đổi vị trí điện cực sốc
  • Tăng năng lượng sốc, giảm thời gian phát hiện
  • Thay đổi dạng sốc: chuyển cực tính (pha đàu a-nốt "thường" tốt hơn), dùng dạng sốc đã được "tối ưu" (thí dụ Biotronik Biphasic2)
  • biphasic 2 removing SVC shock coil












  • left subclavian shock coilThay đổi cấu hình các điện cực sốc: thêm bớt cuộn sốc nhĩ. 
  • Lưu ý các thuốc BN đang dùng
  • drug







    Viagra




    • Amiodarone sau khoảng 73 ngày điều trị có thể tăng DFT 62% (9,9J -> 13,7J), tăng theo nồng độ thuốc trong cơ thể.
    • liều Sildenafil (Viagra) >200 mg tăng DFT 38%. Không có thay đổi với liều ~ 100 mg.
Trần Thống: Với các máy với năng lượng sốc 40 J, chúng ta có cần tiếp tục quan tâm đến ngưỡng phá rung nữa không, hay là có thể lập trình 30J, 35 J, n*40J và không cần test nữa? Theo bài của Patton ở trên, năm 2006 không test chỉ có ảnh hưởng khoảng 5% BN. Mà ngay cả nghiên cứu SCD-HeFT vẫn đạt kết quả an toàn với sốc tối đa 30J!

How to Optimize ICD programming.

Renee Sullivan. U Missouri, Iowa City, IA. How to prevent unnecessary RV pacing.
Chỉ định tạo nhịp: nhịp xoang chậm, chronotropic incompetence (không tăng nhịp tim thích hợp), blốc nhĩ-thât, thời gian nhĩ thất kéo dài. Nếu không có chỉ định, ĐỪNG có tạo nhịp ...  hãy dùng VVI 40 n/p. Nếu cần tạo nhịp thì cần cấy bộ máy có tạo nhịp 2 buồng. hoặc 3 buồng.
BN ICD rất nhạy cảm tạo nhịp thất. Nghiên cứu DAVID (2002) với BN không cần tạo nhịp thất (với dẫn truyền tốt) có kết quả là sau 1 năm mức suy tim (tử vong, nhập viện do suy tim cấp) là 16% (tạo nhịp VVI-40) và 27% (DDDR). Theo nghiên cứu INTRINSIC RV không phải là tạo nhịp DDDR tạo suy tim mà là mức tạo nhịp ở thất cao sẽ đưa đến suy tim. Với chương trình AVSH dùng AV hysteresis, các BN được tạo nhịp 2 buồng có mức suy tim thấp hơn là VVI-40.

INTRINSIC RV

Tuy nhiên không phải giảm tạo nhịp tối đa là đạt mức suy tim thấp nhất!

INTRINSIC RV

Altitude AVSHKết quả nghiên cứu INTRINSIC RV đã được kiểm chứng vơi các kết quả trong nghiên cứu ALTITUDE (2009). Nói chung với mức tạo nhịp thất <40% (Sharma 2005), mức suy tim thấp hơn là không tạo nhịp (trong các BN có dẫn truyền tốt). >40% thì mức suy tim sẽ cao hơn. Theo nghiên cứu DAVID II (2009), tạo nhịp ở nhĩ không có ảnh hường suy tim.
Nghiên cứu MVP (2010) dùng chương trình giảm tạo nhịp thất MVP của Medtronic, có kết quả hơi bất ngờ. So với tạo nhịp VVI-40 MVP có vẽ (vì không đạt ý nghĩa thống kê) không được tốt bằng VVI-40, nhưng phương hướng là BN với VVI-40 ít suy tim hơn. Nghiên cứu đã bị ngưng sớm vì lý do trên. Với BN với dẫn truyền nhĩ-thất >230 ms, thì MVP có hại rõ ràng!

MVP
MVP
Sullivan, HRS2013. Kết quả nghiên cứu MVP.

Ngoài ra MVP đã bị nghi ngờ là tạo loạn nhịp trong nghiên cứu RAPTURE (2012).

Vậy nếu BN có tạo nhịp thất >40% thì cấn làm gì?
  • Giảm nhịp tạo nhịp cơ bản.
  • Kéo dài thời gian nhĩ-thất. Dài quá thì mất đi sự đóng góp của nhĩ và có thể đưa đến hội chứng máy tạo nhịp.
  • Nâng cấp CRT-D?
Sullivan: DDDR với AVSH tốt hơn MVP. Chỉ dùng MVP với BN có thời gian nhĩ-thât ngắn thôi.

Duy Nguyen. U Colorado, Aurora, CO. How to minimize unnecessary ICD shocks: role of detection intervals and ATP.
  • ICD cứu BN nhưng sốc tăng nguy cơ tử vong! Nên dùng ATP thay vì sốc. Giảm sốc bằng cách giảm R-R (tăng nhịp) để bắt đầu điều trị.
  • Đa số các cơn VF (rung thất) thật ra là VT (nhịp nhanh thất) nhanh.
  • Quan tâm trước đây về dùng ATP trong các cơn nhịp thật nhanh là đình trễ sốc đưa đến ngất, sẽ làm tăng nhịp cơn loạn nhịp, và không rõ hiệu quả.
  • Đa số các cơn nhịp nhanh đơn dạng (monomorphic VT), nhất là trong các BN với bệnh mạch vành, thường do các vòng vào lại tạo nên và trên nguyên tắc có thể phá được với ATP.
  • Nghiên cứu PainFree Rx, rồi PainFree II Rx (2004) đã có kết quả là 1 ATP có thể phá được 72% các cơn VT nhanh. ATP không tăng nguy cơ ngất, VT nhanh lên hoặc tử vong. BN được điều trị với ATP có chất lượng cuộc sống tốt hơn BN được điều trị bằng sốc.
  • PREPARECác nghiên cứu EMPIRIC (2006), PREPARE (2008) đều đạt kết quả tốt với tăng số R-R để phát hiện rung thất, đến 30/40, và đều dùng 240 n/p là vùng VF, chỉ có điều trị bằng sốc. Kết quả PREPARE bên phải rất khả quan. Các thông số được dùng là
    • VF: 250 n/p, 30 R-R/ 5 s, ATP trong vùng VF, rồi đợt sốc tối đa
    • VT2: 180 n/p, 30 R-R/ 7 s, ATP (8 xung, 88% chu kỳ), rồi đợt sốc 30J đến sốc tối đa.
    • VT: 160-167 n/p, 30 R-R/9 s, theo dõi (không điều trị).
  • Trong nghiên cứu MADIT-RIT 3 bộ thông số được so sánh. Hiệu quả nhất là MADIT-RIT B (High rate cutoff). Nghiên cứu này dùng máy Boston Scientific nên dùng thời gian để phát hiện các cơn loạn nhịp.

MADIT-RIT
MADIT-RIT
MADIT-RIT

Chúng ta phải hiểu là các BN trong các nghiên cứu trên là BN primary prevention, chưa tùng có cơn loạn nhịp trước khi cấy máy. Ở VN, các BN được cấy máy thuộc nhóm secondary prevention, đã từng bị một cơn loạn nhịp. Do đó chúng ta cần phải cẩn thận khi áp dụng các kết quả trên. Chúng tôi đề nghị với BN VN chỉ có rung thất và nhịp nhanh thất đơn dạng
  • VF: 200 n/p, 24/30; ATP-One-Shot, sốc ≥ 30J
  • VT (nếu BN có nhịp nhanh thất) xx n/p, 30, 3 burst (add S1, dec S1), 3 ramp (add S1, dec S1), sốc nếu BN mệt vì cơn VT 10J.
  • VT (nếu BN không có nhịp nhanh, thí dụ BN với hội chứng Brugada) 170 n/p, không có điêu trị ... monitoring
Brett Atwater. Duke U, Durham, NC. How to program ICD to maximize device longevity and reduce cost.
TT: các kết quả nghiên cứu đã được báo cáo trước đây về thời gian hoạt động ICD không áp dụng với các thế hệ ICD mới. Ngoại trừ Medtronic vẫn tiếp tục dùng pin 1,0 Ah, tất cả các công ty khác đều dùng pin lớn hơn so với các máy cách đây 6 năm! Cty Boston Scientific đã có bài quảng cáo chế nhạo Medtronic về điểm pin của Medtronic đã không thay đổi, tiếp tục là 1 Ah, trong khi các máy khác đa tăng năng lượng pin!

ICD energy consumptionTrong hình bên phải, chúng ta thấy là khoảng 53% năng lượng pin được dùng trong quản lý máy. Đây là lý do tại sao, thời gian hoạt động tùy thuộc điện lượng của pin rất nhiều. Nhưng thời gian "treo tường" (không hoạt động) của máy có thể gần gấp đôi thời gian "bình thường" vì không có tạo nhịp, chỉ nạp điện tối thiểu, và không có liên lạc với bên ngoài. Vì vậy khi so sánh thời gian hoạt động ICD, cần phải tìm hiểu cơ chế hoạt động đi đôi với thời gian đó.

Atwater đặc biệt quan tâm đến chức năng lập trình vô tuyến (wireless) trong các máy thế hệ mới. Theo Atwater dùng chức năng vô tuyến rất hao pin:
  • 15 phút dùng vô tuyến = 1 ngày pin bình thường
  • 3 giờ cấy một máy CRT = 12 ngày pin
  • nếu quên bấm "end session", bộ phận vô tuyến sẽ tiếp tục hoạt động 60 phút sau sử dụng cuối cúng = 4 ngày pin.ECOST
Remote Monitoring, theo dõi từ xa (ở VN chỉ có Home Monitoring của Biotronik hoạt động được), hao pin (giảm thời gian hoạt động khoảng 2 tháng) nhưng có thể giảm điều trị lầm (sốc lầm) nên sẽ có lợi về phương diện thời gian hoạt động.
MADIT-RIT
Nên cố gắng dùng ATP, bớt sốc. Bảng bên phải là kết quả MADIT-RIT.

Atwater có phê bình về ghi lại tiền sử điện tim. Các ICD Medtronic sẽ bị giảm thời gian hoạt động đáng kể khi ghi lại tiền sử điện tim. Trong các máy khác, tiền sử điện tim chỉ giảm thời gian hoạt động khoảng 11 ngày, nên chức năng này mặc định ON.
Chức năng OptiVol của Medtronic sẽ giảm tuổi thọ ICD 3-4 tháng, không nhiều.
Tạo nhịp 7 ngày, tương đương với 1 ngày pin.
Nên tận dùng các chương trình giảm tạo nhịp thất. Nếu phải tạo nhịp thì dùng mức an toàn tối thiểu, hoặc dùng các chương trình điều chỉnh tự động biên độ xung.

Late breaking sessions
Leslie Saxon.
USC, Los Angeles, CA. ICD programming trends and relationship to survival. The ALTITUDE study group.
Nghiên cứu dùng hệ thống theo dõi từ nhà của Boston Scientific, LATITUDE. 217,284.000 BN đã có 195.000 sốc. Khác với nghiên cứu năm 2012 ghép mỗi BN với điều trị với BN không điều trị với bệnh lý tương tự nhau, nghiên cứu này hổn tạp nên kết quả không rõ.

ALTITUDE 2013

Theo kết quả trên khi gặp trường hợp ATP không thành công mà còn làm loạn nhịp nhanh lên, cần phải điều chỉnh máy sớm! Do đó phải cần theo dõi chặc chẽ các điều trị. BN có nhiều điều trị nên đăng ký chương trình theo dõi từ xa (ở VN chỉ có Home Monitoring từ Biotronik với các ICD dòng Lumax, Iforia) để có thể điều chỉnh điều trị sớm.

Christof Kolb. Munich, Germany. Lower occurance of inappropriate shock in dual chamber ICD therapy reached with optimized discrimination and minimized Vp.
Đây là nghiên cứu về chương trình phân biệt VT/SVT PARAD+ và chương trình giảm tạo nhịp thất SafeR 60 n/p trong các ICD của Sorin. Các BN đều được cấy máy 2 buồng. Nghiên cứu là so sánh chức năng máy 1 buồng (VVI 40 n/p) và PARAD+chức năng máy 2 buồng (PARAD+, SafeR).
 
PARAD+ hiệu quả giảm sốc lầm.

Chương trình PARAD+ của Sorin và SMART Detection của Biotronik có nhiều điểm giống nhau và khác hẵn các chương trình của Medtronic, St Jude, Boston Scientific. Cả 2 đều được thiết kế không dựa theo chương trình trong máy 1 buồng. Chương trình phân biệt VT/SVT của các công ty Mỹ, vì muốn được FDA chấp thuận sớm, chỉ là những cải tiến của chương trình cơ bản trong ICD 1 buồng. Biotronik và Sorin đã phải trải qua những chương trình nghiên cứu dài để chứng minh sự an toàn cho cơ quan FDA mà các công ty Mỹ đã không phải chịu.

Các BN được chọn không có chỉ định tạo nhịp (như trong các nghiên cứu DAVID, ... MVP).
SafeR

Kết quả về tạo nhịp ở trên không có gì bất ngờ vì SafeR tương tự MVP nhưng không có chống chỉ định như MVP (MVP chuyển qua AAIR quá nhanh, và chuyển trở lại DDDR quá chậm, và lại có tạo nhịp thất hơi bất thường). Vấn đề quan trọng trong giảm tạo nhịp thất không phải là mức tạo nhịp mà là mức suy tim. Đừng có lầm mục đích (giảm suy tim) và công cụ (giảm tạo nhịp).

Không có khác biệt về tử vong trong 27 tháng theo dõi.


Posters
Peribert Pavaci, et al. Munich, Germany. Should we consider antitachycardia pacing in patients at high risk of polymorphic VT and VF?
Nghiên cứu 132 BN được theo dõi 55 tháng: 65 BN bện cơ tim phì đại, 39hội chứng QT kéo dài, 21 hội chứng Brugada, 5 rung thất tự phát (idiopathic), 1 cathcholaminergic polymorphic VT, 1 early repolarization syndrome. 28 (21%) BN đã có 445 cơn loạn nhịp thát: 385 VT đơn dạng, 27 VT đa dạng, 33 VF. ATP đã tành công phá 383 VT đơn dạng, tỷ lệ 99%, 7 (29%) VT đa dạng, Chỉ 1 ca tăng nhịp xảy ra. Chỉ có 1 cơn ngất có thể là do ATP đình trễ điều trị bằng sốc. Tóm lại lập trinh ATP trong nhóm BN với VT đa dạng và VF rất hữu hiệu giảm sốc, 390/445= 88%.

Joachim Seegers, et al. Goettingen, Germany. Incidence of appropriate ICD shock after generator replacement without preceding shock: how necessary is the continued ICD therapy?
Với theo dõi 5,7 năm, 411/1535 (27%) BN đã có sốc với ICD dầu tiên. 402 BN không có sốc đã thay máy sau 4,7 năm. 52/402 (13%) đã bị sốc với máy thứ 2. 91 BN chưa tùng bị sốc đã thay máy lần 2 sau 4,3 năm. 13/91 (14%) đã bị sốc lần đầu với máy thứ 3. 19 BN đã được cấy máy thứ 4 sau 3,7 năm. Chỉ 1/19 (5%) BN bị sốc lần đầu với máy thứ 4.
Như vậy phải cần 14 năm không sốc, khoảng 2 đời ICD thế hệ mới, thì mới chắc là không cần ICD nữa vì chưa từng bị sốc??

Faisal Merchant, et al. Emory U, Atlanta, GA. Incidence of defibrillator shocks after elective generator exchange following uneventful first battery life.
Nghiên cứu ALTITUDE theo dõi 35.954 BN đã thay ICD. Nhóm A: 23.735 (66%) đã không bị sốc. Nhóm B: 12219 (34%)  đã bị một sốc với máy đầu tiên.  Các BN nhóm A thường lớn tuổi hơn (71 so với 68 tuổi), và nhiều phái nữ (29% so với 22% nữ). Sốc vì loạn nhịp > 200 n/p xảy đến 10% nhóm A và 18% nhóm B 5 năm sau thay máy.
Cũng như bài của Seeger, đến đời máy thứ 2 số BN bị sốc lần đầu cũng đáng kể (10%).

John Jennings, et al. U Alabama, Brimingham, AL Pacemaker and ICD implantation with uninterrupted dabigatran comparison to uninterrupted warfarin.
So với warfarin dabigatran có ít biến chứng chảy máu và hematoma hơn. Tiếp tục điều trị với cả 2 loại thuốc chỉ đưa đến mức biến chứng chảy máu thấp: dabigatran: 1/48 (2,1%) bị pericardial effusion với dabigatran; 9/145 (4,6%) bị hematoma với warfarin.

Antoine Roux. Clermont-Ferrand, France. Brugada syndrome: the Quebec experience.
Với 37 BN được cấy ICD, với theo dõi 61 tháng, chỉ có 7 BN được điều trị (5 sốc, 2 ATP).Tất cả đều đã có triệu chứng (ngất=6, đột từ=1). Tất cả các BN không triệu chứng đều không có điều trị. 15 BN (41%) đã bị 24 biến chứng liên quan đến ICD. Biếnn chứng nhiều nhất liên quan đến dây điện cực.

Frederic Sacher, et al. Bordeaux, France. Seven years outcome ò ICD recipients in Brugada syndrome.
ICD được cấy trong 165 BN không có triệu chứng, 182 BN với ngất, 31 với đột tử. Dưới đây là kết quả theo dõi 77 tháng. 46 BN (12%) có điều trị chuẩn, 91 BN (24%) đã có sốc lầm (trung bình 4 sốc) do dây hư (43 BN), SVT (21 BN), T wave oversensing (14 BN).

Brugada


Takashi Uchiyama, et al. Ibaraki, Japan. Long-term outcome after implantable cardioverter defibrillator in patients with Brugada syndrome - results from 5 year follow-up.
39 BN được cấy ICD được theo dõi 66,1 tháng. 29 BN thuộc diện primary prevention, và đã có loạn nhịp khi thử ngiệm điện sinh lý. 10 BN đã có triệu chứng, nhóm secondary prevention. Chỉ có 5 BN có sốc chuẩn, 4 thuộc nhóm 1, và 4 thuộc nhóm 2. Trong khi đó 9 BN đã bị sốc lầm, 2 BN bị hư dây điện cực, 2 BN  bị nhiễm trùng, và 1 BN bị cardiac tamponade.

Brugada

Kết luận


Tạo nhịp/ Chọn máy
  • BN ICD cần tạo nhịp thì nên cấy ICD 2 buồng. Trong trường hợp BN tình nghị chronotropic incompetence (không tăng nhịp tim thich hợp) thì nên thử gắng sức.
  • ICD 2 buồng cần có chương trình giảm tạo nhịp thất. Không nên cấy máy không có chương trình giảm tạo nhịp thất
  • Chương trình MVP có chống chỉ định khi PR >230 ms. Chỉ nên dùng với các BN với PR ngắn
  • Nếu tạo nhịp thất >40%, nên nghĩ đễn CRT-D. Lý do là BN ICD rất nhạy suy tim. Do đó trong trường hợp blôc nhĩ-thất hoàn toàn nên cấy CRT-D. Đây là suy nghĩ ở Âu-Mỹ với bảo hiểm y-tế chi trả hầu hết chi phí. Đối với BN VN, thì có hướng giải quyết khác. Hãy e-mail chúng tôi.
  • Với các BN với bệnh sử có loạn nhịp trên thất, hoặc tình nghi loạn nhịp trên thất, nên cấy máy 2 buồng. Ngoài ra cần tìm hiểu hiệu quả chương trình phân biệt VT/SVT của máy.
  • Trong nghiên cứu SCD-HeFT (2005), đã có 829 BN được cấy ICD 30 J với điều trị chỉ sốc thôi, được theo dõi trung bình 45,5 tháng. Đã không có BN nào tử vong vì máy không thành công can thiệp dứt cơn loạn nhịp. Do đó, máy 30 J an toàn.
  • Phải cần 14 năm không sốc mới không cần tiếp tục thay ICD?
  • Vì ATP công hiệu phá các cơn loạn nhịp, ngay cả trong trường hợp BN với "chỉ" rung thất, thí dụ BN với HC Brugada, nên chọn máy với chức năng ATP trong vùng VF.
  • ICD với pin lớn có thời gian hoạt động dài hơn. 
    • Cẩn thận với các thời gian hoạt động được các công ty cung cấp nêu ra. Cần hiểu quy chế hoạt động thì mới so sánh được.
    • Tạo nhịp sẽ giảm tuổi thọ máy nhiều, nên càng phải lưu ý đến điện lượng pin với các BN này. 
    • Thời gian hoạt động dài chẳng những giảm chi phí cho BN mà nhờ giảm số thay máy sẽ giảm biến chứng cho BN, vì mỗi lần thay máy là BN có nguy cơ biến chứng cao.
    • Cẩn thận khi dùng chức năng wireless để điều chỉnh máy. Rất hao pin.
  • Theo dõi từ xa (remote monitoring) có giảm tuổi thọ của máy vài tháng nhưng về lâu dài tăng tuổi thọ máy vì giảm điều trị lầm.
  • Các ICD Medtronic sẽ rất hao pin ghi lại tiền sử điện tim, một chức năng tối cần thiết để chẩn đoán các cơn loạn nhịp. Mức giảm tuổi thọ máy không đáng kể rong các ICD của Biotronik, St Jude.
  • T-wave oversensing là một quan tâm. Nên chọn máy có thể dùng bộ lọc để ép sóng T. Các ICD Medtronic không thể điều chỉnh nhận cảm được. Các máy đời mới St Jude có bộ lọc để ép sóng T. Tất cả các ICD Biotronik đều có bộ lọc để ép sóng T.
  • BN hội chứng Brugada (ECG týp 1) không có triệu chứng (ngất, đột tử) có mức điều trị rất thấp, dù cho có thử nghiệm điện sinh ly gây loạn nhịp! Không nên cấy máy?
Cấy máy/ Thay máy
  • Thay máy là một thủ thuật có nguy cơ cao nhiễm trùng, sút dây điện cực.
  • Trước khi thay máy, cần tìm hiểu về các dây điện cực đã được cấy trước đó và đánh giá nguy cơ nghẽn tĩnh mạch.
  • Các BN đang uống warfarin nến tiếp tục (kiểm tra là INR < 3 trước khi mổ), không nên chuyển sang heparin. Áp dụng chính sách này với dabigatran và aspirin. Với aspirin có nguy cơ cục động được tạo ra trong thời kỳ mới ngưng, nên tiếp tục tốt hơn.
  • Với máy ICD 40 J, có thể không cần làm DFT test, mà chỉ cần lập trình sốc rung thất  bắt đầu từ 30 J.
    • Nếu sóng R < 5 mV, nên làm DFT test để kiểm tra sensing.
  • Với các ICD <40 J, nên áp dụng DFT test đã được dùng trong SCF-HeFT: lập trình sốc 20 J, 30 J, n*max, rồi làm test. Nếu 20 J thành công thì lập trình 10J, 20J, n*max. Lập trình sốc thành công + 10 J, và tăng đến sốc tối đa.
  • Với các ICD 40 J, nên chuyển sang dùng dây sốc với 1 cuộn  sốc ở thất? Khi cần rút dây điện cực thì dễ hơn. 
    • Trừ trường hợp cấy ICD ở vai phải.
  • Dùng chlorhexidine-alcohol thay vì povidone-Iodine.
Lập trình ICD
  • Sốc cứu BN ... nhưng giảm tuổi thọ BN!
  • Nên tận dụng điều trị với ATP, ngay cả với các bệnh lý "chỉ có" rung thất hoặc VT đa dạng (polymorphic), như HC Brugada, QT kéo dài, bệnh cơ tim phì đại, v.v. ... Do đó nên chọn các máy với ATP trong vùng VF. 
    • ATP thành công là tránh giảm tuổi thọ BN!
  • Lập trình phát hiện: VF 200 n/p, 24/30; VT chỉ theo dõi từ 170 n/p, hoặc bao gồm nhịp nhanh thất đã được ghi lại trước đó, dùng NID=30.
  • Nên tận dụng các chức năng phân biệt VT/SVT.
    • nên cẩn thận với các detection enhancement được thêm vào chương trình cơ bản. Các chương trình này tăng độ đặc hiệu nhưng giảm độ nhạy do đó có thể có cơn VT không được điều trị!
    • Các chương trình nghiên cứu thường dùng BN primary prevention. BN VN thương là secondary prevention, nên cần phải cẩn thận khi áp dụng kết quả các nghiên cứu này.



Bạn có thể liên lạc với chúng tôi qua e-mail về lienlac@tamthuvn.com. Chúng tôi sẽ trả lời bạn trong thời gian ngắn nhất. Cám ơn bạn đã ghé thăm trang web của Tâm Thu và Northwest Signal Processing.


Lượt truy cập: visitor

Cập nhật: 27/06/2013                                                Copyright NWSPI 2013