Tại
HRS 2012 đă có bài so sánh các dây điện cực vít xoắn của cả 3 công ty.
Các dây điện cực các Cty Medtronic và St Jude, với thiết
kế mới, đă tỏ ra cứng
hơn
các thế hệ trước (không MRc) nên có xác suất sút dây và thủng tim cao
hơn. Dây của Biotronik, v́ nói chung là từ thiết kế dây thế hệ trước
(không
MRc) nên đă không có sự cố đáng kể.
Mới đây, ngày 21/5/2013, Cty
Medtronic đă có thống báo là dây vít xoắn CapsureFix Novus 5076, 7F, đă
nhận
được chứng nhận CE MRc. Đây là dây trước đây Cty Medtronic dùng để so
sánh với dây 5086MRI đă được thiết kế để đạt MRc và trong các tài liệu
của Cty Medtronic dây 5086MRI thường được đề cao hơn dây 5076! Với dây
5076 Cty Medtronic bây giờ có dây vít xoắn 7F! Đây cũng là
bằng chứng cụ thể
là
không nhất thiết phải thiết kế một dây MRc mới hoàn toàn, mà nên t́m
xem các dây trước đây có đạt MRc không! Đây là con đường Cty Biotronik
đă chọn từ lúc đầu! Boston Scientific cũng đă chọn đường này. Kế đến
Cty Medtronic đă theo con đường này với dây 4074/4574 và mới đây với
dây 5076!
Chúng tôi nghĩ là với dây 5076 mềm
hơn và nhỏ hơn (chi cần kim chọc 7F), có ai sẽ tiếp tục dùng dây
5086MRI? Yếu điểm của dây 5076,
v́ là thế hệ năm 2000 nên không có lớp phủ làm giảm sóng tạo tác phân
cực
(polarization artifact). Do đó chương tŕnh điều chỉnh tự động biên độ
xung thất sẽ không hoạt động tốt, sẽ đưa đến nhiều BN mang máy tạo nhịp
cao cấp
MRc mà lại tạo nhịp ở mức 5V trong khi ngưỡng tạo nhịp, khi được BS
kiểm tra, th́ rất thấp, <1V ... v́ sóng
tạo tác do loại điện cực này tạo nên quá cao, lấn áp sóng phản ứng
(evoked response). Dây 4074,
thế hệ 2002, có lớp phủ TiN giúp giảm sóng tạo tác khi tạo nhịp ở thất,
nhưng dây mỏ neo thường không được các BS sử dụng. Dây
5086MRI có
lớp phủ
TiN để giảm sóng tạo tác. Như vậy là đối với các máy tạo nhịp, dây
5076 là một bước lùi về phương diện dùng biên độ xung thấp, tiết kiệm
pin. BN khi khám phá ra dây 5076 là thế hệ 2000, sẽ rất thất
vọng
khi dây này được dùng chung với một máy cao cấp hiện đại nhất của công
ty! Giống như mua xe Mercedes cao cấp đời mới mà được cung cấp với lốp
xe to (... dây 5086 MRI dùng kim chọc 8F) hoặc lốp xe bias ply (lốp bố
chéo, thường chỉ dùng với các xe việt dă, cross country vehicle ... dây
5076 thế hệ 2000),
không phải lốp radial chuẩn (... dây nhỏ 7F hoặc 6F với lớp phủ trên
điện cục để giảm sóng tạo tác), nên không chạy được tốt!
Chúng
tôi nghĩ là trong nay mai Cty Medtronic lại phải ra thêm một dây điện
cực MRc tương
tự dây 5076, hoặc nhỏ hơn, với lớp phủ TiN trên các điện cực.

Vào
thời điểm đầu tháng 6, 2013, chỉ c̣n duy nhất Cty St Jude là chỉ có thể
cung cấp dây được thiết kế để đạt MRc, to (8F) và cứng hơn các dây
trước đây. Dây
này cũng có thể là một trở ngại cho BN trong tương lai, như sẽ
được bàn dưới
đây. Về lâu dài, chúng tôi nghĩ dây Tendril MRI sẽ chịu chung
số phận với dây Medtronic 5086MRI v́ to và cứng!
HRS2013

Đă
có 13-14 ca tử vong khi BN chụp MRI. Nhưng đây là những trường hợp BN
không được theo dơi chặt chẻ. Từ các báo cáo này đă có chống chỉ định
chụp MRI trong các BN mang máy điều trị nhịp tim (máy tạo nhịp, máy phá
rung). Nhưng các nghiên cứu gần đây với các máy thế hệ sau năm 2000 có
kết quả là BN có thể được chụp MRI an toàn
nếu máy đă được điều
chỉnh với các chương tŕnh đặc biệt để chụp MRI. Nazarian
(John Hopkins, Baltimore, USA) có báo cáo về kinh nghiệm chúp MRI
>1000 BN mang máy tạo nhịp (54%) và phá rung (46%) b́nh thường,
không có giới hạn ǵ trong chụp MRI 1,5T, kể cả vùng ngực. Có những
thay đổi nhỏ trong
các số liệu của BN giữa trước và sau khi chụp MRI, <20%. Chụp
MRI vùng ngực
không có tăng mức sự kiện đáng kể. Mức sự cố thấp: 0,7% máy bị lập lại
(reset) do
nhiễu, và một số BN bị ức chế
tạo nhịp.
Magna Safe là một nghiên cứu về MRI với các BN mang máy b́nh thường,
không MRc. Đă có 600 BN đă được chụp MRI (ngoài vùng ngực) 1,5T an toàn
không có sự cố nào cả. Tuy nhiên cũng cần nên nhắc lại là các máy phải
được điều chỉnh với một chương tŕnh an toàn MRI.
Không
thể chụp an toàn BN mang máy đang hoạt động b́nh thường.

Về
phương diện hiệu quả MRI khi chụp vùng ngực th́ Sasaki (
Circulation, 2011)
đă có báo cáo về mức tạo tác. Nói chung th́ vùng bị nhiều bóng tạo tác
(imaging artifact) là vùng phía trước. Múc tạo tác sẽ giảm với độ xa
cách điểm cấy máy điều trị nhịp tim. Do đó đă có đề nghị là đế giảm mức
tạo tác khi chụp MRI tim, nên cấy máy ở bên vai phải. Điều này có
thể áp dụng cho máy tạo nhịp, nhưng không khó có thể áp dụng cho máy
phá rung và máy điều trị suy tim.
Mức tạo tác sẽ trầm trọng hơn với MRI 3 Tesla, so với 1,5 Tesla.
Đă có nhiều nghiên cứu về sự an toàn chụp MRI với các máy của cả 3 công
ty đang cung cấp máy MRc ở VN. Không có sự cố ǵ với các máy MRc này.
Jung, HRS
2013. Các sự kiện có thể xảy ra với MRI.
Trong bản các sự kiện có thể xải ra khi chụp MRI ở trên, đại đa số liên
quan đến máy. Các công ty sản xuất đều hiểu và có thể xử lư được các sụ
kiện này. Chỉ duy "lead tip heating " (tăng nhiệt độ ở đầu dây) là liên
quan đến dây điện cực và là vấn đề khó giải quyết nhất.
Trong khi 2 công ty Medtronic và
Biotronik dùng thiết kế kinh điển dây
điện cực, Cty St Jude đă thêm một bộ lọc ở đầu dây điện cực.
Jung, HRS 2013. Bộ lọc
trong đầu dây SJ Tendril MRI
Bộ lọc này là lư do tại
sao dây Tendril MRI có thân 6.6F mà cần dùng kim chọc 8F. Bên lề, một
số BS quan tâm
- Làm sao kiểm tra là bộ lọc vẫn c̣n hoạt động tốt, sau vài
năm trong tĩnh mạch? Với thiết kế kinh điển th́ hoặc dây hoạt động
được, hoặc dây đứt. Với bộ lọc, dây có thể tạo nhịp tốt, nhưng chức
năng ép sóng 64 Mhz bị hư. Nếu bộ lọc hư th́ hậu quả với BN
ra sao khi chụp MRI?
- Nhờ bộ lọc ép các sóng 64 MHz, là sóng RF trong máy MRI,
nên Cty St Jude có thể chịu được mức SAR (Specific Absorption Rate, mức
hấp thụ riêng) lên đến 4 W/Kg, thay v́ 2W/Kg
trong các máy các công ty khác. Tuy nhiên có ư kiến là nếu chụp lâu hơn
ở 2W/Kg th́ cũng có thể có được các h́nh sắc sảo như với 4W/Kg.
- Nếu nh́n về tương lai, máy MRI 3 Tesla sẽ thay thế máy MRI
1,5
T hiện
nay. Với tần
số Larmor tăng theo tỷ lệ thuận (directly
proportional) với mức từ trường, sóng RF với máy 3 T sẽ là ở tần số 128
MHz. Ở
tần số đó, với thiết kế dây điện cực kinh điển, th́ ḍng điện sẽ bị ép
xuống
1/2 (so với ḍng điện cùng năng suất ở 64 MHz). Với bộ lọc trong dây
SJ,
th́
sóng 128 MHz sẽ không bị ép (theo biểu đồ ở trên)... nên sẽ tạo ḍng
điện rất cao, đưa đến
mức tăng nhiệt độ cao ở đầu dây? Như vậy các BN cấy dây SJ sẽ bị chống
chỉ định chụp MRI 3T ngay cả với máy tạo nhịp được thiết kế cho 3T?
Các BS đầu ngành đă giải thích giới hạn hiện nay trong các máy
MRc "phải chờ 6 tuần sau khi cấy dây mới được chụp MRI". Lư do
không phải là sợ dây sẽ bị
từ trường làm lệch, mà chỉ là trong các nghiên cứu, các BS muốn biết
chắc là các sự thay đổi là do chụp MRI, chớ không phải v́ lư do khâc.
Theo kinh nghiệm các BS th́ dây điện cực có tỷ lệ 4% sút trong tháng
đầu sau khi cấy. Như vậy giới hạn 6 tuần này không có liên quan đến
chụp MRI, và thật ra không cần thiết. Đây chỉ là một điều kiện để tham
gia chương tŕnh nghiên cứu!
Các BS trong nhóm duyệt xét đơn FDA xin lưu hành máy Medtronic
Revo (tương đương với máy EnRhythm MRI , thế hệ máy MRc đầu
tiên - sau đó
c̣n có Advisa/Ensura), có cho biết là lúc đầu FDA đặt tiêu chuẩn là mức
tăng nhiệt độ ở đầu dây điện cực giới hạn 2°C. Cty Medtronic đă tŕnh
kết quả là nhiệt độ có thể tăng lên đến 8°C mà không có đưa đến tổn
thương cơ tim. FDA cuối cùng đă chấp nhận mức tăng nhiệt độ
đến 8°C.
Về câu hỏi là có cần cấy máy MRc mặc dù cho tới nay các chương tŕnh
nghiên cứu với các bộ máy thế hệ sau năm 2000 không MRc có kêt quả tốt,
th́ câu trả lời là nên cấy máy MRc, v́ việc điều chỉnh các máy MRc dễ
làm hơn là với máy không MRc. Nếu lỡ điều chinh không dúng bới các máy
không MRc, hậu quả
có thể tai hại! Ngoài ra các BS MRI cũng rất ngại khi BN có máy mà hiện
nay vẫn có chống chỉ định chụp MRI.
Trong các chương tŕnh nghiên cứu chụp MRI với máy b́nh thường, BS nhịp
đă phải ở lại pḥng MRI trong
cả thời gian chụp MRI, có thể lên đến 45 phút, để theo dơi BN và gián
tiếp chịu trách nhiệm cho BS MRI! Với máy MRc, BN chỉ cần
đến khoa tim mạch bật lên chương tŕnh MRI rồi có thể đi chụp MRI. Sau
đó trở lại khoa tim mạch để lập lại chương tŕnh của máy trước đó. Với
BN mang máy ICD MRc, có thể cần phải có BS nhịp trong pḥng MRI, v́
chương tŕnh MRI trong máy đă khóa
lại các điều trị loạn nhịp nhanh, nên cần phải có BS nhịp theo dơi và
có thể cần phải có máy sốc ngoài da để sẵn gần pḥng MRI.

Cty
St Jude có cái actuator, một thiết bị nhỏ để chuyển chương tŕnh
máy tạo nhip Accent MRI từ b́nh thường sang chương tŕnh MRI và ngược
lại.
Bên lề, các BS tim mạch quan tâm là BS MRI sẽ không chịu sử dụng
actuator
này v́ như vậy trách nhiệm sẽ quy về BS MRI nếu lỡ BN có sự cố ǵ khi
chụp MRI, v́ BS MRI đâu có hiểu rơ bệnh tim của BN! Suy nghĩ
là nếu BS MRI dùng Actuator thay đổi chương tŕnh trong máy tạo nhịp,
th́ BS MRI sẽ là người chịu trách nhiệm khi có sự cố, nhiều khi không
phải do chụp MRI! Do đó chụp
MRI các BN mang máy điều trị nhịp tim chỉ có thể thực hiện ở BV có khoa
tim mạch có máy chương tŕnh có thể điều chỉnh máy được. Hoặc phải mời
BS tim mạch có kinh
nghiệm cấy máy từ BV khác qua phụ ca MRI. Kỹ thuật viên công ty máy tạo
nhịp có thể phụ BS tim mạch, nhưng KTV chỉ có thể điều chinh máy dưới
sự chỉ đạo của BS tim mạch.
Về vấn đề có nên cấy máy MRc hay
không, Bs Oto (Ankara, Turkey) có các
ư kiến dưới đây

Oto, HRS2013. Nếu không phải v́ lư do kinh tế, nên cấy máy MRc!

Oto, HRS
2013. Các BS có 3 chọn lựa. 1. cấy bộ máy MRc. 2.Tối thiểu nên cấy dây
MRc!.
3. không cấy máy MRc.

Oto, HRS 2013. BN <85 tuổi, không có chống chỉ định, nên cấy máy
MRc.
Về tương lai, th́ BS Berger (John Hopkins U, Baltimore, USA) có cho
biết thông tin là cơ quan FDA (USA) để nghị điều kiện cấp giấy phép lưu
hành một máy phá rung MRc: sẽ đ̣i hỏi một chương tŕnh nghiên cứu
PMA (Pre-Market Approval) trước khi cấp giấy phép lưu hành,
với 1500 BN được theo dơi 2 năm. Sau đó sẽ cần theo dơi 2500 BN trong
ṿng 5 năm. Đây là những chương tŕnh nghiên cứu rất tốn kém, sẽ giới
hạn sự tham gia của các công ty ở thị trường Mỹ. Do đó có thể trong
tương lai gần đây, các máy phá rung MRc chỉ sẽ có ở châu Âu thôi!
Có 3 báo cáo về sự cố sút dây và thủng tim với dây Medtronic
5086MRI. Như đă bàn ở phần đầu, chúng tôi tin là dây này sẽ được dây
5076 thay thế, nên chúng tôi xin miễn bàn đến ở đây.
Kết luận
Với 50-75% (Roguin,
Europace
2008) các BN hiện đang mang máy điều trị nhịp tim sẽ có nhu cầu chụp
MRI trong thời kỳ mang máy, các BS nên bàn với BN dưới 85 tuổi về các
máy tương thích cộng
hường từ, MRc. Tối thiểu là
nên cấy dây điện cực MRc, để cho đến kỳ thay máy sẽ cấy một máy MRc để
được một bộ
máy đạt MRc. Hiện nay, ngoài dây điện cực tạo nhịp, đă có dây thất trái
và dây sốc MRc. Có dây không MRc hoặc có dây bỏ lại trong người là
chống
chỉ định chụp MRI! Các máy MRc an toàn nhưng
cần
phải điều chỉnh máy vào chế độ hoạt động MRI trước khi chụp cộng hưởng
từ!

Hiện
nay sự khác biệt giữa giá máy tạo nhịp không MRc và máy tạo nhịp MRc
không nhiều, nên đa
số BN cấy máy tạo nhịp lần đầu tiên có thể được một bộ máy MRc để bỏ
một chống
chỉ định có thể ảnh hưởng đời sống của BN khi bị đột quỵ hay bị tai nạn
với chấn thương sọ năo, cần chụp MRI. BS MRI sẽ rất ngại khi phải chụp
MRI BN mang máy tạo nhịp b́nh thường. Ngoài ra các máy MRc là thế hệ
mới nhất, có nhiều chức năng đă được cải thiện và với thời gian hoạt
động dài ... đều là những yếu tố tốt cho BN! Đă có nhiều BS châu
Âu áp dụng suy nghĩ này.
Về chọn điểm cấy máy tạo nhịp MRc th́ nên chọn phía vai phải, để tăng
khoảng cách đến tim, giúp giảm ḅng tạo tác khi cần chụp MRI tim. Các
máy CRT và ICD th́ khó có thể theo đề nghị này v́ cần phải được cấy ở
bên trái.
Bạn
có thể liên lạc với chúng tôi
qua e-mail về lienlac@tamthuvn.com.
Chúng
tôi sẽ trả lời bạn trong thời gian ngắn nhất. Cám ơn bạn đă ghé thăm
trang web của Tâm Thu và Northwest Signal Processing.
Lượt truy cập:
Cập
nhật: 5/6/2013
Copyright
NWSPI 2013