NWSPIBanner
TamThu

powered by FreeFind
Liên lạc với chúng tôi (bấm vào icon)
Skype
Skype Me™!
Yahoo Messenger
YM message
E-Mail
E-mail
Nhắn tin: 0903 739 920
Pro MRI
Chi tiết bên dưới trong khung này
Ad1

Ad2

Ad3

Ad4

Ad5

Ad6

Ad7

Ad8

English Home Page


Trang chủ


Máy tạo nhịp tim


Điều trị suy tim bằng máy tạo nhịp


Máy tạo nhịp tạm thời


Máy phá rung tự động


Máy thăm do điện sinh lư tim


Cẩm nang cho bệnh nhân


Máy dự đoán đột tử


Liên lạc: nwspi@ comcast
net

hoặc
lienlac@
tamthuvn.
com

Tủ sách tư liệu khoa học

Kết quả nghiên cứu PRELUDE


Bài về kết quả sơ khỏi nghiên cứu PRELUDE đă được dời về một trang khác.

Ngày 6/5/2011 tại hội nghị Heart Rhythm Society Scientific Sessions, đă được tổ chức ở San Francisco, bác sĩ Carlo Napolitano đă công bố kết quả sơ bộ nghiên cứu PRELUDE. Kết quả đă được đăng trên tạp chí Journal of the American College of Cardiology (JACC 2012, 59(1): 37-45) vào tháng 1, 2012. Trong bài này chúng tôi sẽ tóm tắt bài JACC.

Trong nghiên cứu lâm sàng này nhóm bác sĩ Ư muốn trả lời câu hỏi: thử nghiệm điện sinh lư nhằm tạo loạn nhịp nhanh ở thất có hiệu quả đánh giá nguy cơ đột tử ở các bệnh nhân có sóng điện tâm đồ tưp I Brugada ( hay do thuốc) mà không có triệu chứng (ngất, đột tử). Theo tam giác của bác sĩ Priori (2002) th́ các bệnh nhân này thuộc nhóm với nguy cơ cở trung, và v́ vậy chỉ định cấy máy phá rung không rơ.

Priori Risk Stratification

Một hội nghị các chuyên gia về hội chứng Brugada năm 2002 đă đưa ra đề nghị dùng thử nghiệm điện sinh lư để tạo các cơn loạn nhịp nhanh ở thất để đánh giá nguy cơ đột tử hầu đưa đến quyết định cầy máy phá rung. Nhưng sau đó, một số bác sĩ không cho là thử nghiệm điện sinh lư là một phương thức thích hợp để đánh giá nguy cơ đột tử cho nhóm bệnh nhân này. Do đó các bác sĩ đă đề ra nghiên cứu  FINGER (2010) với kết quả là thử nghiệm điện sinh lư tạo loạn nhịp nhanh ở thất đă không được kiểm chứng là hiệu quả đánh giá nguy cơ đột tử của các bệnh nhân với hội chứng Brugada. Tuy nhiên v́ chỉ một số các bệnh nhân trong FINGER được thừ nghiệm điện sinh lư, nên kết luận trên không được chặt chẻ về phuong diện thống kê.

Nghiên cứu PRELUDE là sự cộng tác giữa 42 trung tâm thăm ḍ điện sinh lư tại các bệnh viện tại Ư, và đă tuyển 308 bệnh nhân được theo dơi trung b́nh 34 tháng. Nghiên cứu PRELUDE nhắm vào nhóm có sóng tưp I Brugada ( hay với thuốc) nhưng không có đột tử, nhóm giữa trong h́nh trên. Bảng dưới đây là tóm tắt về các bệnh nhân tham gia PRELUDE.

PRELUDE Demogrraphics
Tất cả các bệnh nhân đều được làm thử nghiệm điện sinh lư, tránh sơ suất của FINGER. So sánh số bệnh nhân không có tiền sử đột tử giữa hai nhóm bệnh nhân với kết quả thử nghiệm điện sinh lư dương tính và âm tính, th́ không có khác biệt!

PRELUDE Inducibility
Tỷ số không có loạn nhịp khi chia nhóm dựa theo tiêu chuẩn có thể tạo cơn loạn nhịp bằng những đợt xung nhanh (thử nghiệm điện sinh lư).
 Trong h́nh A là khi chia nhóm thử nghiệm điện sinh lư với 1 đến 3 xung sớm (premature stimuli). Với theo dơi 36 tháng không có khác biệt về số loạn nhịp.

Trong h́nh B, chỉ dùng nhóm thừ nghiệm điện sinh lư với 1 và 2 xung. Sự khác biệt không đạt ư nghĩa thống kê.

Như vậy thử nghiệm điện sinh lư không có hiệu quả phân biệt các bệnh nhân sẽ có triệu chứng trong tương lai! Kết quả này đă chứng thực kết quả của nghiên cứu FINGER và vô hiệu hóa kết quả thử nghiệm điện sinh lư tạo loạn nhịp thất.

Quan trọng hơn nữa là các bác sĩ khám phá là chỉ 34% các cớn loạn nhịp có thể tạo lại thêm một lần nữa ... có nghĩa là tạo loạn nhịp thành công tùy thuộc nhiều yếu tố khác (may rủi!).

PRELUDE Repeatability
Tái tạo loạn nhịp. Nếu loạn nhịp tạo ra trong thừ nghiệm điện sinh lư thật sự là tiêu chuẩn chọn các bệnh nhân với nguy cơ cao, th́ phải có thể tạo lại thêm một lần nữa. Với 34% có thể tạo thêm 1 lần nữa, th́ yếu tố may rủi quá cao!

Một tiêu chuẩn đánh giá nguy cơ loạn nhịp ở các bệnh nhân Brugada, là dùng thuốc (flecainide, ajmaline, procainamide, pilsicainide) trong các bệnh nhân không có sóng ECG Brugada Tưp 1, để hiện ra các sóng này. Nghiên cứu PRELUDE đă có kết quả là dùng thuốc để phát hiện ECG Brugada Tưp 1 không hiệu quả chọn lọc các bệnh nhân có nguy cơ loạn nhịp cao.

PRELUDE drug inducibility
Dùng thuốc để phát hiện ECG Brugada Tưp 1 không công hiệu chọn lọc các bệnh hân có nguy cơ loạn nhịp cao. Trong 137 BN cần dùng thuốc, chỉ có 1 BN có một cơn loạn nhịp!  Nói chung các bệnh nhân không có ECG Tưp 1  có nguy cơ loạn nhịp thấp.

Hai kết quả âm tính này đi ngược lại chỉ định máy phá rung cho bệnh nhân với hội chứng Brugada, nhất là ở Việt Nam. Vậy chớ nhóm PRELUDE đă chứng thực được tiêu chuẩn nào để chọn lọc các bệnh nhân với nguy cơ loạn nhịp cao? Trong các tiêu chuẩn được dung trước đây chỉ có 2 tiêu chuẩn được chứng thực
Và đương nhiên bị một cơn đột tử là chỉ định loại I để cấy máy phá rung. Tiêu chuẩn này không c̣n bàn cải nữa!

PRELUDE spontaneous & syncope
Chỉ có 2 tiêu chuẩn kinh điển là ngất với ECG tưp1  được chứng thực là hiệu quả phân biệt các bệnh nhân.

PRELUDE Syncope + spontaneous
Tiêu chuẩn kép: ngất + ECG tưp 1 .

Ngoài các tiêu chuẩn kinh điển ở trên, nhóm PRELUDE c̣n phát hiện thêm 2 tiêu chuẩn có thể được dùng để chọn các bệnh nhân có nguy cơ cao. Đó là thời gian trơ <200 ms (kiểm tra với thử nghiệm điện sinh lư) và phân đoạn QRS (QRS fragmentation, do Morita, Circulation 2008, đề nghị).

QRS fragmentation
Một tiêu chuẩn mới: phân đoạn QRS (QRS fragmentation) với từ 2 xung trở lên trong QRS.

Vrp & QRSf
Hiệu quả 2 tiêu chuẩn mới:
thời gian trơ thất < 200 ms,  và phân đoạn QRS.

Chúng tôi có liên lạc với nhóm PRELUDE để t́m hiểu thêm về tiêu chuẩn QRS-f (phân đoạn QRS). Morita (Circulation 2008)khi đề nghị QRS-f là tiêu chuẩn, th́ dùng ECG với vị trí V1-V3 ở vùng liên sườn 2 hoặc 3, và mở rộng băng tần của bộ máy ECG. Trong nghiên cứu PRELUDE các BS dùng ECG b́nh thường nên độ nhạy giảm xuống (chỉ có khoảng 8% bệnh nhân có), nhưng độ đặc hiệu tăng lên rơ rệt (~98%). Do đó khi khám phá 2+ xung trong QRS, bệnh nhân có nguy cơ loạn nhịp rất cao! Khi có thêm sóng ECG tưp I tự phát, theo h́nh 4B ở trên, th́ nguy cơ ước đoán khoảng 57%.

Kết luận

Theo nghiên cứu PRELUDE th́ không cần các thử nghiệm sau đây có thể tạo sự cố ở bệnh nhân
  • dùng thuốc để phát hiện ECG Brugada Tưp 1
  • thử nghiệm điện sinh lư với mục đích tạo loạn nhịp
Các bệnh nhân không có ECG Brugada tưp 1 tự phát, nên trở lại khám sau 6 tháng, v́ bệnh có thể thay đổi.

Các bệnh nhân có ECG Brugada tưp 1 tự phát có nguy cơ loạn nhịp khoảng 10% trong ṿng 4 năm. Nếu có thêm
  • tiền sử ngất th́ nguy cơ tăng lên đến 20% trong ṿng 4 năm.
Các bệnh nhân với
  1. thời gian trơ thất (đo với thừ nghiệm điện sinh lư) < 200 ms có nguy cơ khoảng 12% trong ṿng 4 năm
  2. phân đoạn QRS với 2+ xung, có nguy cơ khoảng 30% trong ṿng 4 năm
Nhóm PRELUDE chưa trả lời khi bệnh nhân vừa có ECG tưp 1 và 1 trong 2 tiêu chuẩn trên, th́ nguy cơ sẽ tăng lên như thế nào, và bao nhiêu người có thêm các tiêu chuẩn đó.

Theo suy nghĩ của chúng tôi, dựa theo các kết quả được tŕnh bài ở trên, trong khi chờ báo cáo kế tiếp của nhóm PRELUDE, bệnh nhân với ECG tưp 1
  1. phân đoạn QRS cần cấy máy phá rung vi nguy cơ rất cao... chúng tôi ước đoán có thể là 57% trong ṿng 4 năm! Ngay cả có phân đoạn QRS mà không có ECG tưp 1 cũng cần cấy máy phá rung (nguy cơ khoảng 30%).
  2. tiền sử ngất hoặc có thời gian trơ thất < 200 ms, th́ nên cấy máy phá rung.
    Trong thời gian chưa cấy máy, gia đ́nh nên học cấp cứu bằng hối sức tim phổi. Nguy cơ ước đoán khoảng 20% trong ṿng 4 năm.
    • Bạn nên cẩn thận kêu người thân theo dơi chặt chẻ hơn khi có những cơn sốt. Nếu có ngất trong thời kỳ bị sốt th́ bạn nên nghĩ đến cấy máy.
  3. không đạt tiêu chuẩn nào khác, th́ có thể cấy máy phá rung nhưng có thể chờ có cơn ngất và nên trở lại tái khám sau 6 tháng (kiểm tra phân đoạn QRS) nếu không có cơn ngất. Trong thời gian này, gia đ́nh nên học cấp cứu bằng hối sức tim phổi. Nguy cơ ước đoán khoảng 10% trong ṿng 4 năm.
V́ kết quả chương tŕnh nghiên cứu PRELUDE c̣n quá mới, đa số các bác sĩ tại Việt Nam sẽ chưa có dịp cập nhật thông tin này và, nếu bạn chỉ có ECG tưp 2 hoặc 3, có thể sẽ gửi bạn làm thử nghiệm với thuốc để lộ sóng ECG tưp I, rồi sau đó làm thử nghiệm điện sinh lư tạo loạn nhịp. Cả 2 thử nghiệm này đều có thể đưa đến sự cố tổn thương bạn. Bạn nên giới thiệu bác sĩ trang web này, và nếu bạn hoặc bác sĩ có thắc mắc hăy liên lạc với chúng tôi ở địa chỉ e-mail bên dưới.

Quyết định có cấy máy phá rung hay không, là của bạn. Chúng tôi chỉ có thể bàn về kết quả nghiên cứu lâm sàng. Như bạn thấy trong hính 4B ở giửa trang web này 1 bệnh nhân không có ECG tưp I tự phát mặc dù nguy cơ thấp, vẫn bị cơn loạn nhịp. Nhưng theo báo cáo của PRELUDE trong nghiên cứu không có bệnh nhân nào bị tử vong. Đây là lư do tại sao chúng tôi khuyên gia đ́nh nên học cấp cứu bằng hồi sức tim phổi.

Nếu bạn chỉ có ECG tưp I và có phương tiện tài chính để mua máy phá rung, th́ nên cấy máy. Nhưng bạn phải hiểu là xác suất được điều trị chuẩn thấp, trong khi xác suất bị điều trị lầm cao hơn (xem bài đánh giá các máy phá rung). Do đó bạn nên chọn Cty có đội kỹ thuật viên kinh nghiệm có thể điều chỉnh máy tránh điều trị lầm.
Nếu bạn không đủ phương tiện, th́ lo gom tiền pḥng khi có thêm triệu chứng.

Nói chung, một khi bạn quyết định cấy máy phá rung, giá không phải là yếu tố duy nhất để chọn máy. Bạn nên t́m hiểu về hỗ trợ của công ty cung cấp, nhất là kinh nghiệm đội kỹ thuật viên. Cuộc sống với máy phá rung tiếp tục điều trị lầm có thể làm cuộc sống của bạn khổ sở, lo sợ.





Bạn có thể liên lạc với chúng tôi qua e-mail về địac chỉ lienlac@tamthuvn.com. Chúng tôi sẽ trả lời bạn trong thời gian ngắn nhất. Cám ơn bạn đă ghé thăm trang web của Tâm Thu và Northwest Signal Processing.


Số lượt truy cập: visitor

Cập nhật: 6/02/2012                                                                 Copyright NWSPI 2012