NWSPIBanner
TamThu

powered by FreeFind
Liên lạc với chúng tôi (bấm vào icon)
Skype
Skype Me™!
E-Mail
E-mail
Nhắn tin:
0903 739 920
Pro MRI
Chi tiết bên dưới trong khung này
Ad1

Ad2

Ad3

Ad4

Ad5

Ad6

Ad7

Ad8

English Home Page






20 years
Bấm vào hình để đến trang kỷ niệm 20 năm.

APHRS 2017

Trang dành cho Bác Sỹ


Xem


Tran Thong, Huan Do-Quang, Programming AV delay to reduce ventricular pacing in device with AV hysteresis- Lập trình thời gian nhĩ-thât để giảm tạo nhịp thất trong các máy dùng thời gian nhĩ-thất trễ.

Tran Thong, Huan Do-Quang, Realistic asessment of the longevity of pacemakers - Thời gian hoạt động thực tế các máy tạo nhịp.


APHRS2017< APHRS2017APHRS2017APHRS2017

Trả lời câu hỏi của bệnh nhân (BN) về thời gian hoạt động, các bác sĩ (BS) thường dùng thời gian được ghi trong catalog. Thời gian này được tính từ điện lượng thiết kế của pin và dùng các thông số hoạt động tiêu biểu (xem ở trên). Theo sự hiểu biết thường tình, con số này cao hơn thực tế.

APHRS2017APHRS2017APHRS2017APHRS2017

Chúng tôi đề nghi dùng:
tuổi của máy (tính từ ngày cấy, có ghi lại trong máy) + thời gian hoạt động còn lại được máy ước tính.

Số liệu dùng để đánh giá tổng thời gian hoạt động này từ các báo cáo kiểm tra máy tại Viện Tim TPHCM trong năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017. Các kiểm tra do nhóm kỹ thuật viên (KTV) của Cty Tâm Thu đảm trách dưới quyền bác sĩ phụ trách phóng khám hàng tuần cho các bệnh nhân mang máy tạo nhịp Biotronik. Các KTV đã được huấn luyện để tối ưu hóa hoạt động của máy, kể cả lập trình để dạt thời gian hoạt động dài nhất.

Số liệu được dùng là
  • Máy tạo nhịp 1 buồng: 109 kiểm tra, 91 bệnh nhân, tuổi của các máy đến 5,0 năm
  • Máy tạo nhịp 2 buồng: 109 kiểm tra, 82 bện nhân, tuổi của các máy đến 5,5 năm
  • Đa số các máy là từ các dòng máy Effecta và Estella, vẫn đang được cung cấp ở Viện Tim.

APHRS2017APHRS2017APHRS2017

Tổng thời gian hoạt dộng trung bình là 16,71 năm. Trung vị (median) tổng thời gian hoạt động máy 1 buồng là 17.25 năm, >2,2 năm dài hơn thời gian trong catalog. Điều này không làm chúng tôi ngạc nhiên vì Biotronik đã có tuyên bố là thời gian catalog rất dè dặt.

Vấn đề là tổng thời gian hoạt động này có thức tế không?

APHRS2017APHRS2017APHRS2017APHRS2017APHRS2017APHRS2017

Một biến số (variable) có trong số liệu là tuổi của máy. Chúng tôi đã tính đường hội quy (regression line) của tổng thời gian hoạt động với tuổi máy. Lưu ý là dốc của đường hồi quy không đạt ý nghĩa thống kê (p=0,68). Chúng tôi cũng có làm phân tích nguy cơ (hazard analysis) Cox một chiều (Cox univariate hazard analysis) và đa chiều (Cox multivariate hazard analysis) cho tổng thời gian hoạt động với tuổi máy. Cả 2 không đạt ý nghĩa thống kê.

Khi tính đường hồi quy của thời gian hoạt động còn lại (tghdcl được máy tạo nhịp tính và báo cáo) thì dốc đạt ý nghĩa thống kê, p=3.3E-19 (3.3x10-19). Nếu tghdcl chính xác, thì dốc của đường sẽ là -1 (vì lần sau kiểm tra máy, tghdcl phải giảm bằng thời gian đã trải qua và bằng mức tăng tuối máy). Ở đây dốc là -1,0371. Như vậy là tghdcl hơi cao hơn thực tế. Nhưng sự chênh lệch chỉ là 0,6 năm (7 tháng) sau 15 năm. Như vậy có thể kể là chính xác. Cox 1 và đa chiều tghdcl đối với tuổi máy đều đạt ý nghĩa thống kê. Trong hình ở trang 15, chúng tôi cũng đã vẽ 2 đường khoảng tin cậy 95% (95% confidence interval). Tổng thời gian hoạt động trung bình, 16,71 năm, nằm ngay giữa 2 đường này.


APHRS2017APHRS2017APHRS2017APHRS2017

Với máy 2 buồng, tổng thời gian hoạt động trung bình là 14,3 năm, và trung vị là 14,48 năm. Tghdcl có dốc -0,784, có nghĩa là tghdcl thấp hơn thực tế đên 0,223 năm/năm, nghĩa là sau 5 năm mức giảm thua tăng tuổi thọ của máy đến +1,1 năm (3,3 năm sau 15 năm). Cox 1 và đa chiều tghdcl đối với tuổi máy đều đạt ý nghĩa thống kê. Trong hình ở trang 18, chúng tôi cũng đã vẽ 2 đường khoảng tin cậy 95%.
Tổng thời gian hoạt động trung bình 14,3 năm ở gần đường dưới của khoảng tin cậy 95% chứng tỏ là các giả thuyết đã được dùng có thể không đúng và cần được xét lại.

APHRS2017APHRS2017APHRS2017APHRS2017

Kết luận

Đối với thời gian hoạt động máy tạo nhịp 1 buồng, với phân tích độ vững của tổng thời gian hoạt động theo tuổi máy (age consitency) đã được trình bài ở đây, chúng tôi tin tưởng là tổng thời gian hoạt động trung bình 16,7 năm sẽ khá chính xác.

Đối với máy 2 buồng,với tổng thời gian hoạt động tăng +1,1 năm sau 5 năm, trung bình 14,3 năm có thể là thấp. Từ phân tích với máy 1 buồng, chúng tôi tin là ước tính điện lượng pin còn lại khá chính xác. Thường tghdcl được tính từ điện lượng chia cho dòng điện trung bình nên lý do có sự khác biệt không phải là do máy. Vậy do đâu?

Do bệnh nhân! Giả thuyết được dùng trong phân tích này là sức khỏe bệnh nhân không thay đổi. Chúng ta đã từng chứng kiến cảnh bệnh nhân sau khi cấy máy đã khỏe hẵn lên. Do đó chúng tôi xin đưa ra giả thuyết dưới đây
  • Máy tạo nhịp 2 buồng sẽ giúp bệnh nhân khỏe và nhờ lập trình tốt, với tuổi máy tổng thời gian hoạt động sẽ tăng vì nhu cầu tạo nhịp giảm.
Chúng tôi cũng phải nói rõ là để đạt sự thay đổi tổng thời gian hoạt động tốt này cần 2 yếu tố
  • lập trình của máy phải gần tối ưu. Lập trình không tốt sẽ không đạt được sự thay đổi này, mặc dù sức khỏe bệnh nhân có thể cải thiện. Do đó huấn luyện của kỹ thuật viên (KTV) rất quan trọng. Ở Cty Tâm Thu, các KTV đều gửi báo cáo kiểm tra máy cho Ts Trần Thống, với >25 kinh nghiệm với các máy điều trị nhịp tim Biotronik, kiểm tra lại và hướng dẫn KTV cách lập trình chuẩn. Đây là chương trình đào tạo KTV lâu dài của Cty Tâm Thu.
  • Theo ý kiến của chúng tôi thay đổi chính là ngưỡng tạo nhịp ở nhĩ và thất. Do đó các máy cần phải có chương trình điều chỉnh biên độ xung hữu hiệu (hoạt động chuẩn) và với biên độ thấp (sự khác biệt giữa ngưỡng và biên độ xung tạo nhịp cần phải nhỏ).

Nếu giả thuyết ở trên được xác định với phân tích thêm các số liệu, đây sẽ là lần đầu tiên sự cải thiện sưc khỏe của bệnh nhân mang máy tạo nhịp 2 buồng dùng một tiêu chuẩn khách quan được ghi nhận. Trước đây các chương trình nghiên cứu đều có kết quả là máy 1 buồng và 2 buồng hiệu quả nhu nhau. Máy 2 buồng thì thường có chỉ số chất lượng cuộc sống cao hơn. Lý do chưa chứng minh được hiệu quả của máy 2 buồng là tại các chương trình nghiên cứu thường chỉ quan tâm đến tử vong. Với tuổi trung bình bệnh nhân là >70 tuổi,tử vong do tuối thọ cao, nên có thể che đi hiện tượng cải thiện sức khỏe.
Ngoài ra, 2 yếu tố nêu  trên trong các chương trình nghiên cứu trước đây cũng có thể không tốt, nên sự thay đổi tổng thời gian hoạt động không rõ. Chỉ khoảng 10 năm nay mới có máy với chương trình điều  chỉnh biên độ xung tự động có thể làm rõ sự tăng trướng tổng thời gian hoạt động.

Và nếu giả thuyết được xác định, thì
  • thời gian máy tạo nhịp 2 buồng có thể dài bằng hay hơn máy tạo nhịp 1 buồng!
  • sẽ khuyến kích BN trẻ (<50 tuổi), chọn máy 2 buồng để dược cải thiện sức khỏe trong thời gian mang máy. Mất đi sức khỏe dễ, lấy lại được sức khỏe khó!
Giải thích trong khung bên dưới nặng kỹ thuật, nên các bạn muốn bỏ qua hay trở lại sau có thể chuyển sang poster.

Sau hội nghị chúng tôi đã làm lại các phân tích và khám phá
  • ngưỡng tạo nhịp ở thất giảm với tuổi máy. ĐAPHRS 2018ây là dấu hiệu sưc khỏe của BN được máy cải thiện.
  • Có thể có thêm thông số khác cũng tốt lên với tuổi máy, nhưng với số ca được phân tích chỉ là 82 BN, các thông số khác không đạt ý nghĩa thống kê là giảm với tuổi máy.
Nếu sức khỏe của BN được cải thiện, thì ngưỡng thât và nhĩ đều sẽ tốt cùng lúc, giúp tiết kiệm pin nếu máy có chương trình điều chỉnh biên độ xung tự động ở nhĩ và thất tốt.
  • Đa số các máy đều có bật lên chương trình điều chỉnh tự động biên độ xung thất. Các máy Biotornik có chương trình hữu hiệu nhất trong các máy tạo nhịp nhờ cho phép tận dụng biên độ xung thấp. 
    • Trong các máy tạo nhịp Biotronik, biên độ xung chỉ cần là +0,5V trên ngưỡng. Và biên độ bắt đầu tìm ngưỡng có thể thấp xuống 2,4V, giúp giảm sóng tạo tách phân cực. Máy có kiểm tra hiệu quả của mỗi xung và sẽ có xung dự phòng nếu xung không khữ cực thành công.
      • Các máy St Jude (Abbott) có chương trình tương tự với mức an toàn là +0,25V. Trên thực tế mức +0,25V thấp, nên trong ngày có thể phải làm lại kiểm tra ngưỡng, nên không nhất thiết tiết kiệm pin hơn.
        • Quan trọng là các máy St Jude không thể điều chỉnh chương trình tìm ngưỡng tự động. Các máy Biotronik đều tự động cập nhật các thống số mỗi đêm. Do đó thay đổi của các sóng phản ứng (evoked response) và tạo tác phân cực (polarization artifact) sẽ không vô hiệu hóa chương trình.
        • Trong khi các máy Biotronik có thể thay đổi biên độ xung tìm ngưỡng ban đầu, và thường dùng xung 2,4V, các máy St Jude phải dùng biên độ 4,5V. Hậu quả là sóng tạo tác sẽ cao hơn. Điều này ảnh hưởng tỷ lệ chương trình hoạt động được.
        • Các dây điện cực Biotronik có lớp phủ fractal Iridium, giúp đạt mức tạo tác phân cực thấp cùng lúc sóng phản ứng cao. Điều này giúp tỷ lệ thành công sử dụng chương trình cao.
      • Các máy Medtronic dùng biên độ 2x ngưỡng, cao hơn biên độ xung ở các máy Biotronik và St Jude. Ngoài ra không có kiểm tra sau mỗi xung.
  • Chương trình điều chỉnh biên độ xung nhĩ trong các máy Biotronik dùng biên độ thấp nhất, chỉ +1V trên ngưỡng. Với kỹ thuật viên kinh nghiệm lập trình, biên độ xung ở nhĩ của các máy Biotronik thường thấp.
Mặc dù giả thuyết là ngưỡng tạo nhịp giảm với tuổi máy, chúng tôi nghĩ là mức giảm lúc ban đầu sẽ cao, rồi sau đó mức giảm sẽ nhỏ lại. Do đó chúng tôi nghĩ là hiện tượng thời gian hoạt động tăng với tuổi máy có thể chỉ áp dụng cho vài năm đầu. Với số máy là 82 và thời gian theo dõi là 5 năm, các số liệu chưa đủ để cho biết là tổng thời gian hoạt động lúc nào sẽ bão hòa (saturate).





Bạn có thể liên lạc với chúng tôi qua e-mail về lienlac@tamthuvn.com. Chúng tôi sẽ trả lời bạn trong thời gian ngắn nhất. Cám ơn bạn đã ghé thăm trang web của Tâm Thu và Northwest Signal Processing.

Lượt truy cập: visitor

Cập nhật: 21/09/2017                                                                                                         Copyright NWSPI 2017