Chúng tôi đề nghi dùng:
tuổi của máy (tính
từ ngày cấy, có ghi lại trong máy) +
thời gian hoạt động còn lại được máy ước tính.
Số liệu dùng để đánh giá tổng thời gian hoạt động này từ các báo cáo
kiểm tra máy tại Viện Tim TPHCM trong năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017.
Các kiểm tra do nhóm kỹ thuật viên (KTV) của Cty Tâm Thu đảm trách dưới
quyền bác sĩ phụ trách phóng khám hàng tuần cho các bệnh nhân mang máy
tạo nhịp Biotronik. Các KTV đã được huấn luyện để tối ưu hóa hoạt động
của máy, kể cả lập trình để dạt thời gian hoạt động dài nhất.
Số liệu được dùng là
- Máy tạo nhịp 1 buồng: 109 kiểm tra, 91 bệnh nhân, tuổi của
các máy đến 5,0 năm
- Máy tạo nhịp 2 buồng: 109 kiểm tra, 82 bện nhân, tuổi của
các máy đến 5,5 năm
- Đa số các máy là từ các dòng máy Effecta và Estella, vẫn
đang được cung cấp ở Viện Tim.
Tổng thời gian hoạt dộng trung bình là 16,71 năm. Trung vị (median)
tổng thời gian hoạt động máy 1 buồng là 17.25 năm,
>2,2 năm dài hơn thời gian trong catalog. Điều này không làm
chúng tôi ngạc nhiên vì Biotronik đã có tuyên bố là thời gian catalog
rất dè dặt.
Vấn đề là tổng thời gian hoạt động này có thức tế không?
Một biến số (variable) có trong số liệu là tuổi của máy. Chúng tôi đã
tính
đường
hội quy (regression line) của tổng thời gian hoạt động với
tuổi máy. Lưu ý là dốc của đường hồi quy không đạt ý nghĩa thống kê
(p=0,68). Chúng tôi cũng có làm phân tích nguy cơ (hazard analysis) Cox
một chiều (Cox
univariate hazard analysis) và đa chiều (Cox multivariate hazard
analysis) cho tổng thời gian hoạt động với tuổi máy. Cả 2
không đạt ý nghĩa thống kê.
Khi tính đường
hồi quy của thời gian hoạt
động còn lại (tghdcl được máy tạo
nhịp tính và báo cáo) thì dốc đạt ý nghĩa thống kê, p=3.3E-19 (3.3x10
-19).
Nếu tghdcl chính xác, thì dốc của đường sẽ là -1 (vì lần sau kiểm tra
máy, tghdcl phải giảm bằng thời gian đã trải qua và bằng mức tăng tuối
máy). Ở đây dốc là -1,0371. Như vậy là tghdcl hơi cao hơn thực tế.
Nhưng sự chênh lệch chỉ là 0,6 năm (7 tháng) sau 15 năm. Như vậy có thể
kể là chính xác. Cox 1 và đa chiều tghdcl đối với tuổi máy đều
đạt ý nghĩa thống kê. Trong hình ở
trang 15,
chúng
tôi cũng đã vẽ 2
đường khoảng tin cậy 95% (95% confidence interval). Tổng thời gian hoạt
động trung bình, 16,71 năm, nằm ngay giữa 2 đường này.
Với máy 2 buồng, tổng thời gian hoạt động trung bình là 14,3 năm, và
trung vị là 14,48 năm. Tghdcl có dốc -0,784, có nghĩa là tghdcl thấp
hơn thực
tế đên 0,223 năm/năm, nghĩa là sau 5 năm mức giảm thua tăng tuổi thọ
của máy đến +1,1 năm (3,3 năm sau 15 năm). Cox 1 và đa
chiều tghdcl đối với tuổi máy đều
đạt ý nghĩa thống kê. Trong hình ở
trang
18,
chúng
tôi cũng đã vẽ 2
đường khoảng tin cậy 95%.
Tổng
thời gian hoạt động trung bình 14,3 năm ở gần đường dưới của khoảng tin
cậy 95% chứng tỏ là các giả thuyết đã được dùng có thể không đúng và
cần được xét lại.
Kết luận
Đối với thời gian hoạt động máy tạo nhịp 1 buồng,
với phân tích độ vững của tổng thời gian hoạt động theo tuổi máy (age
consitency) đã được trình bài ở đây, chúng tôi tin tưởng là tổng thời
gian hoạt động trung bình 16,7 năm sẽ khá chính xác.
Đối với
máy 2 buồng,với tổng thời gian hoạt động tăng +1,1 năm sau 5 năm, trung
bình 14,3 năm có thể là thấp. Từ phân tích với máy 1 buồng, chúng tôi
tin là ước tính điện lượng pin còn lại khá chính xác. Thường tghdcl
được tính từ điện lượng chia cho dòng điện trung bình nên lý do có sự
khác biệt không phải là do máy. Vậy do đâu?
Do bệnh nhân! Giả
thuyết được dùng trong phân tích này là sức khỏe bệnh nhân không thay
đổi. Chúng ta đã từng chứng kiến cảnh bệnh nhân sau khi cấy máy đã khỏe
hẵn lên. Do đó chúng tôi xin đưa ra giả thuyết dưới đây
- Máy
tạo nhịp 2 buồng sẽ giúp bệnh nhân khỏe và nhờ lập trình tốt, với tuổi
máy tổng thời gian hoạt động sẽ tăng vì nhu cầu tạo nhịp giảm.
Chúng tôi cũng phải nói rõ là để đạt sự thay đổi tổng thời gian hoạt
động tốt này cần 2 yếu tố
- lập
trình của máy phải gần tối ưu.
Lập trình không tốt sẽ không đạt được sự thay đổi này, mặc dù
sức
khỏe bệnh nhân có thể cải thiện. Do đó huấn luyện của kỹ thuật
viên (KTV) rất quan trọng. Ở Cty Tâm Thu, các KTV đều gửi báo cáo kiểm
tra máy cho Ts Trần Thống, với >25 kinh nghiệm với các máy điều
trị
nhịp tim Biotronik, kiểm tra lại và hướng dẫn KTV cách lập trình chuẩn.
Đây là chương trình đào tạo KTV lâu dài của Cty Tâm Thu.
- Theo ý kiến của chúng tôi thay đổi chính là ngưỡng tạo nhịp
ở nhĩ và thất. Do đó các máy
cần phải có chương trình điều chỉnh biên độ xung hữu hiệu
(hoạt động chuẩn) và
với biên độ thấp (sự khác biệt giữa ngưỡng và biên độ xung
tạo nhịp cần phải nhỏ).
Nếu giả
thuyết ở trên được xác định với phân tích thêm các số liệu, đây sẽ là
lần đầu tiên sự cải thiện sưc khỏe của bệnh nhân mang máy tạo nhịp 2
buồng dùng một tiêu chuẩn khách quan được ghi nhận. Trước đây các
chương trình nghiên cứu đều có kết quả là máy 1 buồng và 2 buồng hiệu
quả nhu nhau. Máy 2 buồng thì thường có chỉ số chất lượng cuộc sống cao
hơn. Lý do chưa chứng minh được hiệu quả của máy 2 buồng là tại các
chương trình nghiên cứu thường chỉ quan tâm đến tử vong. Với tuổi trung
bình bệnh nhân là >70 tuổi,tử vong do tuối thọ cao, nên có thể
che
đi hiện tượng cải thiện sức khỏe.
Ngoài ra, 2 yếu tố nêu trên trong các chương trình nghiên cứu
trước đây cũng có thể không tốt, nên sự thay đổi tổng thời gian hoạt
động không rõ. Chỉ khoảng 10 năm nay mới có máy với chương trình điều
chỉnh biên độ xung tự động có thể làm rõ sự tăng
trướng tổng thời
gian hoạt động.
Và nếu giả thuyết được xác định, thì
- thời gian máy tạo nhịp 2 buồng có thể dài bằng hay hơn máy
tạo nhịp 1 buồng!
- sẽ khuyến kích BN trẻ (<50 tuổi), chọn máy 2 buồng
để dược cải thiện sức khỏe trong thời gian mang máy. Mất đi sức khỏe
dễ, lấy lại được sức khỏe khó!
Giải thích trong khung bên dưới nặng kỹ thuật, nên các bạn muốn bỏ qua
hay trở lại sau có thể chuyển sang
poster.
Sau hội nghị chúng tôi đã làm lại các phân tích và khám phá
- ngưỡng tạo nhịp ở thất giảm với tuổi máy. ĐAPHRS 2018ây là
dấu hiệu
sưc khỏe của BN được máy cải thiện.
- Có
thể có thêm thông số khác cũng tốt lên với tuổi máy, nhưng với số ca
được phân tích chỉ là 82 BN, các thông số khác không đạt ý nghĩa thống
kê là giảm với tuổi máy.
Nếu sức khỏe của BN được cải thiện,
thì ngưỡng thât và nhĩ đều sẽ tốt cùng lúc, giúp tiết kiệm pin nếu máy
có chương trình điều chỉnh biên độ xung tự động ở nhĩ và thất tốt.
- Đa số các máy đều có bật lên chương trình điều
chỉnh tự động biên độ xung thất. Các máy Biotornik có chương
trình hữu hiệu
nhất trong các máy tạo nhịp nhờ cho phép tận dụng biên độ
xung thấp.
- Trong
các máy tạo nhịp Biotronik, biên độ xung chỉ cần là +0,5V trên ngưỡng.
Và
biên độ bắt đầu tìm ngưỡng có thể thấp xuống 2,4V, giúp giảm sóng tạo
tách phân cực. Máy có kiểm tra hiệu quả của mỗi xung và sẽ có xung dự
phòng nếu xung không khữ cực thành công.
- Các máy St
Jude (Abbott) có chương trình tương tự với mức an toàn là +0,25V. Trên
thực tế mức +0,25V thấp, nên trong ngày có thể phải làm lại kiểm tra
ngưỡng, nên không nhất thiết tiết kiệm pin hơn.
- Quan trọng
là các máy St Jude không thể điều chỉnh chương trình tìm ngưỡng tự
động. Các
máy Biotronik đều tự động cập nhật các thống số mỗi đêm. Do đó thay đổi
của các sóng
phản ứng (evoked response) và tạo tác phân cực (polarization artifact)
sẽ không vô hiệu hóa chương trình.
- Trong
khi các máy Biotronik có thể thay đổi biên độ xung tìm ngưỡng ban đầu,
và thường dùng xung 2,4V, các máy St Jude phải dùng biên độ 4,5V. Hậu
quả là sóng tạo tác sẽ cao hơn. Điều này ảnh hưởng tỷ lệ chương trình
hoạt động được.
- Các dây điện cực Biotronik có lớp phủ fractal Iridium, giúp
đạt mức tạo tác phân cực thấp cùng lúc sóng phản ứng cao. Điều này giúp
tỷ lệ thành công sử dụng chương trình cao.
- Các
máy Medtronic dùng biên độ 2x ngưỡng, cao hơn biên độ xung ở các máy
Biotronik và St Jude. Ngoài ra không có kiểm tra sau mỗi xung.
- Chương
trình điều chỉnh biên độ xung nhĩ trong các máy Biotronik dùng biên độ
thấp nhất, chỉ +1V trên ngưỡng. Với kỹ thuật viên kinh nghiệm lập
trình, biên độ xung ở nhĩ của các máy Biotronik thường thấp.
Mặc dù giả thuyết là ngưỡng tạo nhịp giảm với tuổi máy, chúng tôi nghĩ
là mức giảm lúc ban
đầu sẽ cao, rồi sau đó mức giảm sẽ nhỏ lại. Do đó chúng tôi nghĩ là
hiện tượng thời gian hoạt động tăng với tuổi máy có thể chỉ áp dụng cho
vài năm đầu. Với số máy là 82 và thời gian theo dõi là 5 năm, các số
liệu chưa đủ để cho biết là tổng thời gian hoạt động lúc nào sẽ bão hòa
(saturate).