
Có nhiều
chương trình giảm tạo nhịp thất được gặp ở VN. Tùy phương thức
được dùng, các chương trình chỉa ra
- Các chương trình dùng thời gian nhĩ-thât trễ
- chương trình IRS+ trong các máy Biotronik
- chương trình VIP trong các máy St Jude (Abbott)
- Các chương trình dựa trên chuyển đổi phương thức tạo nhịp:
AAI <-> DDD
- Chương trình SafeR của Sorin (Liva Nova)
- Chương trình MVP của Medtronic
- Chương trình Vp Suppression của Biotronik.
- IRS+ là chương trình thông dụng nhất ở VN
- Nghiên cứu lâm sàng VIPERS [1] trước đây
- So sánh hai chương trinh của Biotronik IRS+ và Vp
Suppression
- chương trình nghiên cứu ngẫu nhiên, chéo, hai chiều
- bệnh nhân (BN) đực chọn có dẫn truyền nhĩ-thất tốt
- tiêu chuẩn loại trừ: block nhĩ-thất mạn tính hay thoáng ≥
II.
- Kết quả chính: điểm trung (median) tạo nhịp thất phải
- IRS+: 1.0 (0-11) %
- Vp Suppression: 3,5 (0-27) %
Mục đích của chương trình nghiên cứu được báo cáo ở đây
- Tiêu chuẩn chọn BN để lập trình IRS+. Cần dẫn truyền
nhĩ-thất tốt để đạt ≤20% tạo nhịp thất
- Hiệu quả của chương trình IRS+ trong nhóm BN thường, không
có chọn lựa trước. Cần
dùng thời gian nhĩ-thất năng động khi tạo nhịp thời gian dài
Phương pháp và nhóm nghiên cứu
Chương trình IRS+
Theo hình ở trên, chương trình IRS+ (cũng như tất cả các chương trình
giảm tạo nhip thất) được dùng khi hệ thần kinh tự động trong các BN với
dẫn truyền nhĩ-thất tương đối tốt chuyển từ dẫn truyền tốt qua không
dẫn (kéo dài thời gian ngắn
hay dài). Chúng

tôi
nghĩ cách nhìn này sẽ giúp hiểu các chương trình giảm tạo nhịp thất dễ
dàng và giúp lập trình hiệu quả.
- Thời kỳ BN bị block (khung bên phải): tạo nhịp DDD và nên
dùng thời gian
nhĩ-thất năng động 180/140 (180 ms khi nhịp chậm (≤60 n/p), 140 ms khi
nhịp nhanh (≥140 n/p)) để cung lượng máu được tống
lên phổi và vào cơ thể có đóng góp của nhĩ, có thể đến 100% so
với khi không có đóng góp của nhĩ (thí dụ khi rung
nhĩ) (Halmos, Patterson, British
Heart Journal, 1965) để giúp tăng cung lượng máu thấp do
sóng khử cực của tạo nhịp không hiệu quả. Với thời gian nhĩ-thất dài sẽ
mất
đóng góp này của nhĩ và cung lượng máu sẽ thấp đáng kể. Trong lập
trình, sẽ không được thay đổi các thông số mặc định (default) này.
- Nếu máy có chương trình tối ưu hóa tạo nhịp, trong tương
lai có
thể áp dụng ở đây.
- Thời kỳ BN có dẫn truyền nhĩ thất (khung bên trái), thì máy
sẽ chờ 400 ms
sau xung ở nhĩ (sau sóng p sẽ chờ 355 ms) để sóng R xuất hiện. Lý do
chờ,
là để tận dụng sóng R nội tại với sóng khữ cực sinh lý.
- Ở đây có sự khác biệt giữa các chương trình với thời gian
trễ (AV hysteresis) và các chương trình chuyển đổi phương thức tạo
nhịp, AAI <-> DDD, là khi tim bắt đầu block.
Với AV hysteresis, mỗi chu ky nhĩ đều
có một co bóp thất do sóng R nội tại hay do xung thất.
Với chuyển đổi phương thức, sẽ mất đi một chu kỳ thất mỗi
khi bắt đầu block.
Đây là lý do các chương trình AAI <-> DDD
- không giảm suy
tim (MVP, Sweeney, Heart
Rhythm 2010; DAVID II, Wilkoff, JACC
2009). Trong INTRINSIC RV (Olshansky, Heart Rhythm 2007)
nhờ dùng AV hysteresis và chương trình kiểm tra nhịp nội tại (search)
mức suy tim giảm có đà giảm đáng kể.
- và nếu có tạo nhịp thất bất đồng bộ những khi block
được phát hiện, như MVP,
- có chống
chỉ định khi có block cấp I dài (nghiên cứu MVP, Sweeney, Heart Rhythm 2010,
bị ngưng sớm vì suy tim tăng đáng kể),
- có chống
chỉ định khi có block cấp II (Levine, FAC 2007),
và
- có thể tạo loạn nhịp thất (Sekita, J Cardiovasc Electrophysiol,
2011)
- Chương trình IRS+ sẽ can thiệp khi bắt đầu có block, và cần
chuyển từ trái
sang phải, . Thay vì chuyển sang bên phải
lập tức, máy sẽ chờ thêm 5 chu kỳ. Nếu vẫn không có sóng R nội tại, thì
lúc đó mới chuyển qua chương trình bên phải. Như vậy là IRS+ đã cố gắng
chờ
thêm 5 chu kỳ, chớ không chuyển qua tạo nhịp với thời gian nhĩ-thất
ngắn chỉ vì block thoáng vài chu kỳ.
- Sau khi đã hoạt động với chương trình bên phải. nếu có
sóng R được phát hiện, máy sẽ lập tức chuyển sang chương trình bên trái.
- Sau 180 chu kỳ tạo nhịp thất liên tục, máy sẽ kéo thời gian
nhĩ-thất dài ra (400 ms với xung nhĩ, 355 ms với sóng p) đẻ
chờ nhịp nội tại. Nếu trong vòng 5
chu kỳ không có sóng R nội tại, thì sẽ tiếp tục tạo nhịp với thời gian
nhĩ-thất ngắn. Nếu
khám phá 1 sóng R nội tại thì sẽ chuyển ngay qua chương trình
bên
trái.
Lập
trình
Trong nghiên cứu này, chương trình IRS+ được dùng khi BN có
dẫn
truyền tốt. Dẫn truyền được xác định bằng cách dùng chương trình test
sensing (kiểm tra nhận cảm) tao nhịp DDI @ 40 n/p. Nếu BN có dẫn truyền
tốt (hầu như 100%) thì IRS+ được dùng.
Tạo nhịp lúc nào cũng dùng các thống số mặc
định.
Nhóm
BN được nghiên cứu.
Đây là hồi cứu (retrospective study) dùng các báo cáo kiểm tra máy tạo
nhịp 2 buồng từ công ty Biotronik được thu thập trong các kiểm tra hàng
tuần tại Viện Tim T
p
HCM trong năm 2016 và trong 6 tháng đầu năm 2017.
Từ 109 báo cáo kiểm tra máy của 82 BN, chỉ báo cáo cuối cùng của các BN
đã được
dùng. Như vậy là đã dùng 82 báo cáo.
Giới hạn với các máy E1 của Biotronik: các máy Effecta D và Estella DR.
Các máy này đang còn được cấy ở Viện TIm.
Kết quả và bàn luận
Thời gian hoạt động
trong hình trên đã được tính theo cách trong
báo cáo đã được trình ở APHRS.
Hai ô đỏ ở bên trái và phải là các vùng với dẫn truyền nhĩ-thất tốt (≤
20%) và vùng bị block (≥80%). Thời gian hoạt động trung bình là 14,7 và
14,1 năm. Các thời gian này dài hơn >2 năm thời gian
hoạt động trong catalog.
Test để chọn BN
với dẫn truyền nhĩ-thất với tạo nhịp thất ≤ 20% dùng tạo
nhịp DDI 40 n/p. Chương trình đơn giản này đạt độ nhạy 100% và mức
dương lầm (false positive) 7%. 3 trường hợp dương lầm được phân tích
trong cột bên phải nên không bàn lại ở đây. Chúng tôi nghĩ trong tương
lai có thể tránh được.
Hiệu quả IRS+.
52% BN được chọn vào nhóm được bật IRS+ lên khi test dẫn truyền có kết
quả là BN có dẫn truyền tốt. Trung bình tạo nhịp thất là 6,4 ± 13,2%,
với điểm trung là 1,0%.
Trong nhóm với tạo nhịp ≤ 20%, IRS+ đạt mức tạo nhịp thất 3,2 ± 4,7%,
với điểm trung là 1,0%.

Test dẫn truyền không
đạt
100% có thể được dùng để chọn nhóm BN với block (sẽ có tạo
nhịp
≥80%). 48% được chọn. Độ nhạy 100% và mức dương lầm
là 8%. Trung bình tạo nhịp thất là 97 ± 8,4%, với điểm trung là 100%.
Trong nhóm block (với tạo nhịp ≥80%), 44% BN, mức tạo nhịp
trung bình là 99 ± 2,6% và điểm trung là 100%.
Vì lập trình đơn giản ở trên, các trường hợp BN bị block 2:1 đều đưa
đến tạo nhịp 100%. Nếu cho thay đổi chương trình một chút, trong trường
hợp
block cấp II, chúng tôi cũng có thể đạt mức tạo nhịp gần bằng tỷ lệ
block, thí dụ 50% cho block 2:1 mà không gây tình trạng nhịp nhanh nhịp
chậmcó thể tạo loạn nhịp nhanh.
Kết luận

Trong hồi cứu với 82 BN máy tạo nhịp 2 buồng của Biotronik, chương
trình giảm tạo nhịp thất IRS+ đạt mức
tạo nhịp điểm trung 1% trong nhóm BN với dẫn truyền nhĩ thất tốt (≤
20%). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu VIPERS.
Kiểm tra dẫn truyền với kiểm tra DDI @ 40 n/p có thể được dùng để chọn
các BN với dẫn truyền tốt.