NWSPIBanner
TamThu

powered by FreeFind
Liên lạc với chúng tôi (bấm vào icon)
Skype
Skype Me™!
Yahoo Messenger
YM message
E-Mail
E-mail
Nhắn tin: 0903 739 920
Pro MRI
Chi tiết bên dưới trong khung này
Ad1

Ad2

Ad3

Ad4

Ad5

Ad6

Ad7

Ad8

English Home Page


Trang chủ


Tóm tắt thông tin


Hướng dẫn cho bệnh nhân


Máy tạo nhịp tim


Điều trị suy tim bằng máy tạo nhịp


Máy tạo nhịp tạm thời


Máy phá rung tự động


Máy thăm do điện sinh lư tim


Cẩm nang cho bệnh nhân


Máy dự đoán đột tử


Danh mục website


Liên lạc:
lienlac@
tamthuvn.
com

Tủ sách tư liệu khoa học

Những bài học trong 18 năm cấy và theo dơi thiết bị điều trị nhịp tim
Bs Edward J. Schloss


Bài này nhắm vào các bác sĩ. Bệnh nhân cũng có thể đọc để hiểu các điều một bác sĩ 18 năm kinh nghiêm quan tâm đến, để giúp chọn thiết bị điều trị nhịp tim.

Chúng tôi xin trích ở trang web này bài của BS Edward J. Schloss, Medical Dirrector ̣ Cardiac Electrophysiology (Giám Đốc trung tâm điện sinh lư tim), Christ Hospital, Cincinatti, Ohio, USA. Bài này được đăng trong tạp chí EP Lab Digest, tháng 2, 2013. Phần II được đăng tháng 10, 2013 (bấm vào đây để tới phần II) BS Schloss được tiếng là một BS thực tế nên những lời của BS là những ḥn ngọc cho các BS mới vào ngành. Chúng tôi xin trích lại một số các câu kinh nghiêm của BS Schloss dưới đây.

Trong các mục bên dưới, đoạn đầu chữ nghiên là các bài học từ Bs Schloss. Đoạn viết chữ nhỏ là dịch bài học. Đoạn sau cùng viết chữ thường là b́nh luận của chúng tôi, nếu có.
  • Newer isn't always better. Gradually adopt new pacer and ICD technology - it usually takes years in the marketplace before we know if a product is good or bad. Mới không nhất thiết là tốt hơn. Do đó nên cẩn thận chấp nhận từ từ các kỹ thuật mới về tạo nhịp và phá rung. Thường sẽ phải vài năm sử dụng trước khi chúng ta biết được là thiết bị đó tốt hay xấu.
    Điển h́nh là các thế hệ máy tương thích cộng hưởng từ (MRI). Chúng ta hiện nay có 2 loại dây điện cực tương thích MRI. Loại đầu là các dây đă có từ trước đạt tương thích MRI. Loại hai là các dây mới được thiết kế để đạt tương thích MRI. Trong loại đầu chúng ta có các dây điện cực
    • Biotronik: Safio S, Solia S, Solia T, Corox ProMRI OTW/OTW-S/OTW-L, Linox smart ProMRI SD, Linox smart ProMRI S DX.
    • Medtronic: Capsure Sense 4074/4574, Capsure Fix 5076
    Trong loại hai chung ta có các dây điện cực
    • Medtronic: Capsure Fix MRI 5086
    • St Jude: Tendril MRI
    Tháng 5, 2012, tại hội nghị Heart Rhythm Society ở Boston, USA, đă có một khóa bàn về kinh nghiệm thực tế của các BS với các dây điện cực tương thích MRI. Các dây loại 2 ở phần trên đều có xác suất thủng tim và sút cao hơn b́nh thường. Trong khi các dây của Biotronik th́ không có vấn đề ǵ cả!
    Một thí dụ khác là các dây điện cực sốc. Cty St Jude đă tiên phong dây nhỏ với kích cở 8French (1 French=1/3 mm đường kính) năm 2002. Dây này đă bị thu hồi năm 2010/2011. Kế đến là Medtronic với dây Sprint Fidelis 7 French năm 2004. Dây này đă bị thu hồi năm 2007. Cty Biotronik đă cẩn thận với kỹ thuật hơn và ra dây Linox 8F năm 2006 vẫn lưu hành cho tới nay mà không có vấn đề nào cả. Vào thời điểm năm 2006, Cty Biotronik có thể ra dây Linox 7F dựa theo kỹ thuật dây Kentrox 10F trước đó, nhưng quyết định cung cấp dây dày hơn 1 F, dây Linox 8F, để đạt an toàn cao với lớp cách điện dày. Quyết định này nh́n lại đúng, v́ theo Bs Schloss th́ hiện nay các BS không c̣n quan tâm kích thước dây sốc nữa! Bằng chức cụ thể là hiện nay các BS tiếp tục dùng dây sốc Sprint Quattro (2000) đă có tuổi thọ 13 năm và với kích thước 9F, lớn nhất trong các dây sốc. Do đó đừng có nghe theo các quảng cáo về kích thước dây điện cực, như "dây nhỏ nhất". ... Thực tế quan trọng là kích cớ dây chọc tĩnh mạch v́ sẽ quyết định vết thương tĩnh mạch. Về phương diện này dây với kim 8F dù cho đường kính là 6,6F, cũng không hơn một dây với đường kính 7,6F dùng kim 8F!
  • Pulling the left ventricular lead sheath is similar to taking a golf swing. It demands your full attention, and everyone in the room should hold still and stay quiet until it’s done. Rút (xẻ) ống thông đưa dây điện cực thất trái vào xoang vành giống như lúc đánh banh golf. Chúng ta cần để hết tâm trí vào, và mọi người trong pḥng mổ cần đứng yên và im lặng cho tới khi xong.
    Tâm trạng này giống các BS VN cho là giai đoạn rút ống thông thất trái là giai đoạn gây go nhất v́ sơ hở một chút là dây thất trái sẽ bị lôi ra, phí đi công tŕnh cấy dây. Điều này đúng với các dây sheath của các Cty St Jude và Medtronic. Với bộ sheath Selectra thế hệ mới của Biotronik, nhờ chất nhờn hydrophilic (thích nước) bên trong sheath (các công ty khác dùng chất nhờn bên ngoài sheath!) nên khi xẻ sheath để rút ra, sheath sẽ không động đến dây thất trái. Nhờ vậy thời gian thủ thuật khi cấy máy tạo nhịp/phá rung 3 buồng có thể rất ngắn, đở mệt cho BS và BN, giảm nguy cơ nhiễm trùng. 
  • A left ventricular lead on the septum or in the apex with a good threshold is usually worse than no lead at all. Dây thất trái ở vách liên thất hay ỏ mỏm tim với ngưỡng tạo nhịp tốt thường tệ hơn là không có dây thất trái.
    Có nhiều BS cho là dây thất trái nhỏ là tốt v́ có thể đi vào các tính mạch vành nhỏ. Đi sâu vào tĩnh mạch vành th́ có thể sẽ đến vùng vách liên thất hoặc vùng mỏm tim. Đây là những vùng với thành quả điều trị suy tim không tốt, dù cho ngưỡng tạo nhịp rất tốt.
    Đây là lư do tại sao công ty Biotronik chú trọng đến vấn đề cố định dây điện cực hơn là đường kinh nhỏ. Cần cố định dây điện cực ở điểm có hiệu quả điều trị suy tim tốt (thường là vách tự do thất trái và vùng trung của tim) với ngưỡng tạo nhịp tốt và ngướng kích thích cơ hoành cao. Các BS dùng dây Sentus đă đạt kết quả tốt nhờ 3 yếu tố đó.
  • DF-4 ICD technology takes about 15 seconds off an ICD implant and adds a whole new set of potential problems. Kỹ thuật DF-4 trong các máy phá rung sẽ rút ngắn thời gian cấy máy phá rung 15 giây, nhưng sẽ thêm cả một loạt vấn đề.
    Đây cũng thuộc bài học được bàn ở trên về tiên phong kỹ thuật. Kỹ thuật DF-4 c̣n quá mới. Các dây DF-4 hiện đang được cấy ở VN là thuộc thế hệ 1. Các công ty đă bắt đầu chuyển sang thế hệ 2, có những cải tiến để tránh các vấn đề của thế hệ 1.
  • It's OK to work fast. Just know when it's time to slow down. Làm việc nhanh tốt. Nhưng cũng cần biết khi nào cần làm chậm lại.
  • An ICD shock hurts, but it's not as bad as being kicked by a horse. Phát sốc máy phá rung đau, nhưng không đau bằng bị một con ngựa đă vào ngực.
  • Các BS thường ví là bị đánh sốc giống như bị ngựa đá vào ngực. BS Schloss cho là thật sự không có đau như vậy. Không nên v́ sợ đau đớn mà không cấy máy phá rung!
  • If you implant a pacer in a 20 year old, remember that someone may have to care for those leads for 50 years. Khi cấy máy một bệnh nhân 20 tuổi, đừng có quên là sẽ phải có người chăm lo cho dây đó trong 50 năm.
    Nhiều khi BN chỉ quan tâm về thiết bị mà không t́m hiểu về dây điện cực. Dây điện cực sẽ ở măi trong người BN. Máy th́ sau 10-15 năm sẽ được thay. Do đó khi chọn bộ máy, nên chọn dây có thành tích an toàn tốt nhất!
  • Fewer leads on a device means fewer things can go wrong. Càng ít dây càng tốt v́ sẽ giảm số bộ phận có thể hư. Số dây đây không phải là số phích!
    Công ty Biotronik là công ty duy nhất ở VN cung cấp máy tạo nhịp 2 buồng với 1 dây điện cực, máy Talos SLR với dây Solox, và máy phá rung 2 buồng chỉ cần 1 dây sốc, máy Lumax 540/740 VR-T DX với dây điện cực sốc Linox smart S DX. Các bộ máy này thích hợp cho các BN với nút xoang tốt cần máy 2 buồng.
  • If someone could grant me only one wish about CRT, it would be to eliminate  the problem of diaphragmatic stimulation. Nếu Ơn trên phù hộ cho tôi 1 điều về tái đồng bộ tim (CRT: điều trị suy tim), th́ đó là tránh được vấn đề kích thích cơ hoành.
    Cty Biotronik rất quan tâm đến vấn đề cố định điện cực thất trái v́ nhờ có tự do cố định BS có thể tránh được kích thích cơ hoành. Trong các bộ máy khác, v́ cố định không được tốt, phải đánh đổi 3 yếu tố: điều trị suy tim tốt, ngưỡng tạo nhịp tốt, tránh kích thích cơ hoành. Với cố định tốt, BS có thể chọn điểm đạt cả 3 yếu tố.
  • The most important attribute in an ICD lead or pacer lead is a long established track record of reliability.Yếu tố quan trọng nhất trong một dây điện cực phá rung hay tạo nhịp là thành tích lâu dài về an toàn.
    Tại sao bạn không chọn các dây điện cực từ công ty duy nhất đă không có lệnh thu hồi dây điện cực nào trong quá tŕnh hoạt động 50 năm?
  • I have never had a patient complain to me that their ICD lead is too thick. Tôi chưa bao giờ có BN than phiền là dây sốc quá to.
    Kích thước dây sốc không phải là một yếu tố cần quan tâm. Nên quan tâm quá tŕnh an toàn của dây!

Phần II. 10/2013






Bạn có thể liên lạc với chúng tôi qua e-mail về lienlac@tamthuvn.com. Chúng tôi sẽ trả lời bạn trong thời gian ngắn nhất. Cám ơn bạn đă ghé thăm trang web của Tâm Thu và Northwest Signal Processing.


Lượt truy cập: visitor

Cập nhật: 13/10/2013                                                Copyright NWSPI 2013