![]() |
Liên lạc với chúng tôi (bấm vào icon) | |||
Skype![]() |
Yahoo
Messenger |
E-Mail![]() |
Nhắn tin: 0903 739 920 |
|
Hội chứng Brugada, hội chứng QT
kéo dài: những bệnh di truyền có thể
đưa đếnHội chứng đột tử vì loạn nhịpMục LụcHội chứng đột tử vì loạn nhịpHội chứng đột tử vì loạn nhịp tim là dịch từ Sudden Arrhythmic Death Syndrome (SADS), là hội chứng đột tử không phải do các bệnh tim (structural heart disease). Bài dưới đây trích từ hai bài
Khoảng
1 trong 20 ca đột tử là do SADS. Từ 30-40% SADS
là do rối
loạn các kênh ion (ion channelopathies) ở
các tế
bào tim. Có 6 loại rối loạn kênh ion
|
Hội chứng
Brugada không có thể điều trị bằng
thuốc nên sẽ không bàn thêm
trong bài này.
Hội
chứng QT kéo dài có thể
dùng
thuốc chẹn beta. Tuy nhiên thuốc không
có
công hiệu cao trong trường hợp dòng Natri mạnh.
Khi dùng thuốc chẹn
beta, có thể đưa đến nhịp tim chậm và phải cần
cấy máy tạo nhịp
(AAIR hay DDDR).
Trong
trường hợp đã có quá trình
ngất mà
thuốc không điều trị được (khoảng 25% người được điều trị),
thì cần phải cấy
máy
phá rung (ICD)
vi nguy cơ ngất và đột tử tăng rất cao (khoảng 32% - xem
hình dưới đây).
Trong trường hợp
hội chứng QT kéo dài, sau khi cấy máy
phá
rung, vẫn cần tiếp tục điều trị
bằng thuốc để giảm nguy cơ loạn nhịp. Máy phá
rung sẽ can thiệp khi
thuốc không công hiệu. Trong trường hợp
này,
nên cấy
máy phá rung 2 buồng để có thể tạo
nhịp cao ở nhĩ
hầu giảm bớt thời gian QT, và như vậy có thể bớt
thuốc.
(Hình trích từ Hobbs). Very high risk: có 1 hay 2 cơn ngất trong 2 năm qua. Low risk: có 1 cơn ngất trong 2-10 năm qua hoặc chỉ là QTc > 530 ms. Thuốc chẹn beta có thể giảm nguy cơ từ 32% xuống 12%.
Để chẩn đóan hội chứng QT kéo dài, thời gian QT hiệu chỉnh, QTc
với RR la thời gian giữa hai sóng R tính theo đơn vị giây (seconds), phải trên 490 ms. Thường QTc trên 440 ms được coi là dài. Trong thời gian sóng T, các tế bào tim tái phân cực (repolarize). Thời gian này dài, nên sóng T kéo dài. Vì vậy sự tái phân cực xẩy ra không đều và đưa đến tình trạng có vòng vạo lại đươc tạo ra, đưa đến nhịp xoắn đỉnh (Torsade de Pointes) như trong hình dưới đây (trích từ Hii-Circulation 1992)
Khoảng 25% các bệnh nhân HCQTkD sẽ không điều trị thành công ngưng các cơn xoắn đỉnh với thuốc chẹn beta và sẽ cần máy phá rung. Ngoài ra một số bệnh nhân cũng cần máy tạo nhịp khi điều trị với thuốc chẹn beta vì thuốc hạ nhịp quá thấp.
Các bệnh nhân HCQTkD cần tránh những hoạt động mạnh và những cảm xúc mạnh, vì sẽ đưa đến những đợt tăng adrenalin có thể tạo nên những cơn xoắn đỉnh. Phụ nữ có thai không có ảnh hưởng đến bệnh. Ngoài ra cần tránh các thuốc trong bảng dưới đâỵ
Có đến 10 loại HCQTkD và được phân loại ra: LQT1 - 10 [Wikipedia, Towbin2001] tùy theo kênh ion nào có vấn đề. Thường gặp (50-55%) là LQT1 với các triệu chứng nhẹ nhất. Kế đến là LQT2 với tỷ lệ 35-45%. Với LQT2 cần tránh thuốc trụ sinh erythromycin. LQT3 có tỷ lệ tử vong cao nhất. Một số hiện tương QT kéo dài không hiện ra trong điện tâm đồ thường mà chi khi gắn sức và chính điều này đã gây nên khó khăn trong việc chẩn đoán. Gần đây các bác sĩ đã dùng epinephrine thế cho gắn sức. Có 2 phương pháp thử nghiệm LQT1-3 với epinephrine: Shimizu [Shimizu2004] và Mayo Clinic [ Vyas2006]. Phương pháp Shimuzu chỉ dùng chất epinephrine mà có thể phân biệt loại LQT1, LQT2, LQT3. Sự phân biệt này quan trọng vi LQT3 nguy hiểm nhất cho bệnh nhân.
Các cơn loạn nhịp xảy ra tùy loại LQT
Phạm
Như Hùng, Phạm Mạnh Hùng, Tạ Tiến Phước. Hội
chứng QT dài bẩm sinh. Hội tim mạch học quốc gia
Việt Nam. 25/2/2007. Bài trích từ trang web của Hội tim mạch quốc gia
Việt Nam http://www.vnha.org.vn/news_detail.asp?news_id=89
Ơ cuối bài có
khuyến cáo là khi dùng máy
phá rung, sau sốc vì mức độ catecholamine cao
nên có thể đưa đến những cơn xoắn đỉnh
khác trong thời gian ngắn. Vì vậy bệnh
nhân cần phải dùng thuốc chẹn beta.
T Vy. Kiểm tra tim giúp tránh 1/10 ca đột tử. Tuổi Trẻ Online. 5/9/2005.
Cập nhật: 25/05/2010
Copyright NWSPI 2007- 2010