Thời gian hoạt động dự tính (catalog) của các máy này là >15
năm. Thời gian hoạt động trung bình là 16,6 năm. Thời gian mức trung
(median, có 50% các máy bên dưỡi, và 50% bên trên) là 17,2 năm. Thời
gian dài nhất là 18,9 năm. Như vậy là trong số 124 lần kiểm tra, chỉ có
10 lần là gặp thời gian thấp hơn thời gian dự tính, do
BN có ngưỡng tạo nhịp cao.
Chúng tôi tin tường đây là các máy tạo nhịp với thời gian thực tế cao
nhất ở VN. Các thời gian này là với
- ghi lại đầy đủ thống kê,
- ghi lại các đoạn điện tim với 75% tiền sử (đọan điện tim
trước khi cơn loạn nhịp được máy phát hiện)
- với chương trình điều chỉnh biên độ xung thất hoạt động
Thời gian hoạt động máy tạo nhịp 2 buồng Biotronik
Bên dưới là thời gian hoạt động các máy 2 buồng dòng E1 từ 141 kiểm tra
máy
Thời gian hoạt động trung bình là 14,25 năm. Mức trung là
14,40 năm. So với thời gian dự tính, thì các số liệu thực tế
tốt hơn > 2 năm.
Phân tích
Câu hỏi các bạn sẽ có là: nhờ đâu mà các thời gian thực tế cao hơn thời
gian dự tính. Lý do là
- Thời gian dự tính dùng những thông số đã được quy định (để
giúp so sánh các máy), thường cao hơn thực tế.
- Nhờ các điện cực với lớp phủ fractal
Iridium, các máy đạt ngưỡng tạo nhịp thấp và nhờ chương trình
điều chỉnh biên độ xung tự động hữu hiệu, máy đã dùng được biên độ xung
thấp hơn là dự tính (2,5V), tiết kiệm pin
- Trờ kháng tạo nhịp cũng cao hơn nhờ dùng lớp phủ fractal
Iridium, nên cũng đở hao pin. Với biên độ sóng điện tim cao nhớ fractal
Iridium, tạo nhịp an toàn.
- Các KTV đã được hướng dẫn điều chỉnh các máy để tận dụng
nhịp tim nội tại, tiết kiệm xung được phát ra (sẽ bàn thêm bên dưới).
Điều chinh này có nhiều phần
- Trong máy 1 và 2 buồng, tận dụng nhịp nội tại, và điều
chinh độ nhạy bộ phận gia tốc, được dùng để điều chỉnh nhịp thích
ứng, vừa đủ để BN thoải mái, chớ không có tăng nhịp không cần thiết.
- Các
máy được thiết kế ở Âu-Mỹ nên nhắm vào BN với mức vận động cao hơn là
BN VN. Chương trình điều chỉnh tự động độ nhạy bộ phận gia tốc vì BN VN
không hoạt động nhiều, trở nên quá nhạy. Đến khi BN VN vận động
thì nhịp có thể cao hơn là cần thiết. Chẵng những hao pin vì tạo nhịp
nhanh không cần thiết, mà nhiều khi làm BN mệt.
- Trong máy 2 buống, như trên và thêm chương trình giảm tạo
nhịp thất.
Và lý do thời gian hoạt động dài là do các máy có pin lơn, 1,3 Ah,
và mạch điện tương đối mới, đở hao pin hơn là mạch điện cũ. Máy Evia. máy đầu tiên trong dòng máy tạo
nhịp E1, là thế hệ 2009.
Giảm tạo nhịp thất trong
các máy tạo nhịp Biotronik
Thông thường thí khoảng 1/2 các BN cấy máy vì suy nút xoang và với dẫn
truyền nhĩ thất tốt, và 1/2 cần máy do block nút nhĩ-thât. BN mang máy
tạo nhịp 1 buồng với tạo nhịp ở thất, sẽ cần tạo nhịp khi đường dẫn
truyền bị block hay những khi nhịp xoang xuống quá thấp. Vì tạo nhịp
thất đưa đến sóng khử cực không sinh lý trong tim, tạo nhịp nhiều ở
thất lâu ngày sẽ đưa đến rung nhĩ và suy tim.
Các KTV Cty Tâm Thu đã được huấn luyện để tận dụng nhịp nội tại của BN,
nên mức tạo nhịp trung bình ở thất chỉ là 67% trong hình bên dưới. Các BN với block, khoảng
1/2 các BN mang máy tạo nhịp, thì không tránh tạo nhịp được, là nhõm
trong ô đỏ bên phải với mức tạo nhịp > 80%. Tỷ lệ BN là 49%, gần
bằng số lượng BN có block. Như vậy là các KTV đã phần nào thành công
giảm tạo nhịp không cần thiết. Nếu không điều chinh tốt, thì số BN trong ô đỏ này có thể lên đến 80-90%.
Với máy tạo nhịp 2 buồng, sẽ có tạo nhịp ở thất và ở nhĩ. Theo các
chương trình nghiên cứu về tạo nhịp
thất, tạo nhịp ở thất >40% sẽ tăng suy tim. Với BN
bị block dẫn truyền nhĩ-thất, thì đành phải tạo nhịp gần 100%. Với các
BN với dẫn truyền tốt thì nên giảm tạo nhịp thất không cần thiết. Các
máy 2 buồng Biotronik đều có chương trình
IRS+ giảm tạo nhịp
thất rẫ hữu hiệu.
Trong hình trên chúng ta thấy là chương trình IRS+ đã giúp phân chia
các BN với block nhĩ-thât (ô đỏ bên phải với > 80% tạo nhịp) và
các BN với dẫn truyền nhĩ-thất tốt (ô đỏ bên trái với <20% tạo
nhịp). Trong nhóm với dẫn truyền nhĩ-thất tôt, gồm 45% BN, mức tạo nhịp
thất là 3% với mức trung (median) là 1%. Kết quả này cũng tương tự
nghiên cứu VIPERS với mức tạo
nhịp trung 1%.
Các máy trung cấp và cao cấp Biotronik còn có chương
trình giảm tạo nhịp thất VpSuppression, tương tự chương trình MVP của
Cty Medtronic. Chúng tôi không dùng VpSuppression vì theo kết quả chương trình nghiên cứu VIPERS mức tạo nhịp cao hơn.
Ngoài ra chỉ chương trình IRS+ đạt tiêu chuẩn nghiên cứu giảm tạo nhịp
thất không cần thiết
INTRINSIC RV
hiệu quả giảm suy tim. Vp Suppression thì chỉ đạt hiệu quả của chương
trình
DAVID II (tốt
hơn
nghiên cứu MVP
đã
bị ngưng sơm vì tăng suy tim) với mức suy tim cao hơn. Với IRS+ và các
chương trình theo mo hình INTRINSIC RV, thất sẽ có co mỗi chu kỳ do
nhịp nội tại hay do tạo nhịp. Với các chương trình như MVP và
VpSuppression, nếu tim có block tạm thời thise x có vài chu kỳ không có
co thất, và từ đó có thể đưa đến suy tim nếu các đoạn thời gian bị
block xảy ra nhiều.
Các KTV cũng đã cố
gắng giảm mức tạo nhịp ở nhĩ trong các máy 2 buồng để tiết kiệm pin. nên số BN với tạo nhịp nhĩ >80% chỉ là 27%.
Kết luận
Các máy tạo nhịp Biotronik đạt thời gian hoạt động dài nhất ở VN là nhờ
- Máy
tốt: pin lơn, chương trình điều chỉnh tự động biên độ xung ở nhĩ và
thất, chương trình giảm tạo nhịp thất trong các máy 2 buồng
- Và
các bác sỹ có đội ngũ kỹ thuật viên kinh nghiệm hỗ trợ để tối ưu hóa
điều trị: tận dụng nhịp nội tại ở nhĩ và ở thất, với nhịp thích
ừng vừa đủ để BN thoải mái và không hao pin do nhịp lên cao quá.
Các
bạn hãy so sánh các sô liệu được trình bài ở trên với số liệu tương tự
từ các máy các công ty khác thì sẽ có kết luận là chỉ nên cấy máy
tạo nhịp Biotronik! Ngoài ra bạn cũng nên đi kiểm tra máy 1 lần/năm với
KTV của công ty Tâm Thu. Nếu cần được giới thiểu kiểm tra máy, bạn hãy
liên lạc với chúng tôi.