Kết quả nghiên cứu
DANPACE (Nielsen,
European
Heart J
2011) là tạo nhịp nhĩ (AAIR) có xác suất rung nhĩ cao hơn là tạo nhịp 2
buồng với thời gian nhĩ thất tương đối dài (tới 220 ms). Trong bảng
dưới đây, chúng ta thấy là tạo nhịp 2 buồng trong nhóm bệnh nhân có
"dẫn truyền nhĩ-thất tổt" khi dùng thời gian nhĩ-thất dài hầu giảm tạo
nhịp ở thất, đều có kết quả tốt hơn là tạo nhịp 1 buồng. Về phướng diện
áp dụng ở Việt Nam, thì BN có phương tiện tài chính thì nên cấy máy 2
buồng với chương trình giảm tạo nhịp thất hữu hiệu (và giảm suy tim
luôn)
Kết
quả chương trình nghiên cứu
RACE II
về dùng thuốc điều trị nhịp của các bệnh nhân rung nhĩ mạn tính. Chỉ
cần điều trị đề giữ nhịp thất <110 n/p, không cần phải đạt 80
n/p.
Rung nhĩ mà không được điều trị sẽ làm tình
trạng ngày càng trầm trọng hơn.
Với y học hiện
đại, bệnh nhân bị những cơn rung nhĩ dưới 24 giờ, thì chương
trình tạo nhịp
CLS
có thể giảm các cơn rung nhĩ này. Một khi các cơn rung nhĩ trở thành
dai dẳng và kéo dài trên 24 giờ, thì tạo nhịp không còn hiệu quả. Nếu
bệnh nhân có rung nhĩ, thì các bác sĩ nên bắt đầu
điều trị bằng thuốc chống đông
(warfarin) hoặc aspirin nếu chỉ số CHADS2 thấp để tránh
đột quỵ. Ngoài
ra, cũng nên bắt đầu điều trị nhịp thất bằng thuốc chẹn beta. Nếu không
hiệu quả, thì cần phải chuyển qua
điều
trị nhịp nhĩ bằng thuốc amiodarone hoặc dronedarone.
Nghiên cứu
BURDEN II của nhóm
bác sĩ Puglisi được
đăng năm
2008 đã
xác nhận kết quả nghiên cứu BURDEN năm
2003
là đối với các bệnh nhân đã có rung nhĩ, tạo nhịp
CLS là
phương pháp điều trị hữu hiệu
nhầm giảm nhẹ rung nhĩ. Kế đến là tạo nhịp DDDR, và hiệu quả thấp là
tạo nhịp DDD+!
Máy
tạo nhịp giúp người bệnh với nhịp tim chậm. Tuy
nhiên vì cách tạo nhịp không
hoàn toàn tự nhiên, người bệnh được cấy
máy tạo nhịp lâu ngay có xác
suất khá cao bị rung nhĩ. Rung nhĩ thường xảy ra nhiều hơn
trong trường hợp máy tạo nhịp được dùng theo
phương cách VVI. Ngay cả bệnh nhân với
máy hai buồng cũng có thể bị rung nhĩ. Theo một
nghiên cứu năm 1998 (Folino1998, xem bài của tiến sĩ Trần
Thống,
Phương
cách tạo nhịp tối ưu với blốc nhĩ-thất,
trình tại Đại Hội Tim Mạch Việt Nam 2006) xác suất rung
nhĩ sau 5,5 năm theo dõi như sau
- máy
VDD(R): 9%
- máy DDD(R): 25%
- máy
VVI(R): 27%
Kết quả trên gây nhiều bất ngờ
vì cho tới thời điểm đó, các
bác sĩ tin là máy hai buồng
ít tạo rung nhĩ. Cũng có thể là với
máy hai buồng, bệnh nhân ít bị triệu
chứng nên không biết là mình
bị rung nhĩ. Chỉ có
máy một buồng AAI là có xác
suất tạo rung nhĩ rất thấp.
Trong nghiên
cứu lâm sàng MOST năm 2002 (xem bài
tiến sĩ Trần Thống,
Tạo
nhịp
hai buồng những thông tin mới, được
trình tại hội thảo tại Đại Học Y Hà Nội, 2007)
với 2010 bệnh nhân được theo dõi trong
vòng 6 năm, tỷ lệ bệnh nhân bị rung nhĩ sau 3 năm
là 20% với máy DDD(R) và 27% với
máy VVI(R). Sau 6 năm hai tỷ lệ này lên
đến 30% và 38%!