Theo Elmouchy (ISRN Cardiology, 2013) các bệnh nhân (BN) quan tâm nhất
là
- thời gian hoạt
động và
- an toàn các thiết bị được cấy trong cơ thể.
Đương nhiên là giá,
đối với bệnh nhân VN, cũng là một yếu tô quyết định chọn lựa (không là
yếu tố ở Mỹ vì bảo hiểm sức khỏe đã chi trả hầu hết chi phí), nhưng nếu
BN VN hiếu được hai yếu tố đầu, thì giá với đa số BN, nhất là BN có
bảo hiểm xã hội, cũng đứng hạng 2 hay hạng 3.
Máy
phá rung
Các máy phá rung Biotronik đạt thời gian hoạt động dài nhờ pin lớn,
1,52 Ah và 1,73 Ah (chỉ trong các CRT-D Itrevia 7). Đây
là các pin lớn nhất ở VN.
Theo
Bs Lau (PACE 2016), yếu tố chính để đạt
thời gian hoạt động dài với các máy phá rung (ICD) là điện lượng pin.
Khi chọn máy, bạn nên tìm
hiểu về pin của máy phá rung. Điện lượng các pin được cung cấp ở VN từ
1,1 Ah đến 1,73 Ah.
Máy
với
pin 1,1 Ah không thể dạt thời gian hoạt động của các máy với pin 1,4
Ah
và
càng không thể bằng máy với pin 1, 52 Ah và 1,73Ah của Biotronik.
Các
bạn chắc thắc mắc tại sao máy với pin 1,1 Ah vẫn được cung cấp? Lý do
là ở Âu-Mỹ bảo hiểm y-tế chi trả hết chi phí cấy máy, và môi trường BV
tốt. Do đó thời gian hoạt động không phải là một quan tâm lớn đối với
BS và BN. Ở VN BN
phải chi
tra đa số chi phí. Do đó máy với thời gian hoạt động dài
thích hợp cho BN VN hơn.
Ngay
cả BS Âu-Mỹ cũng đã bắt đầu thay đổi
suy nghĩ trên vì mức sự kiện thay máy (nhiễm trùng là chính khi thay
máy đơn
thuần) cao hơn là khi cấy máy. Với thời gian hoạt động ngắn, và BN sống
lâu nhờ điều
trị hiệu quả, số lần thay máy sẽ tăng. Tỷ lệ sự kiện khi thay máy
(Poole, nghiên cứu REPLACE,
Circulation
2010) lên đến 4,6% và 7,4% khi chỉ thay ICD hay CRT-D, và là
12,7%
và 19,1% khi thay máy với thay/thêm dây điện cực. Do đó giảm số thay
máy tốt cho BN, nhất là các BN trẻ (<60 tuổi) sẽ có nhiều lần
thay máy trong đời!
Ngoài
ra cấn phải hiểu là Biotronik rất dè dặt trong an toàn BN và do đó thời
gian hoạt động đã bị giảm đi ... vì an toàn BN. Trong khi Biotronik từ
đầu thế kỹ (năm 2001) đã tiếp tục tái tạo bình tụ điện (và pin) mỗi
quý, các công ty khác đã giảm xuống chỉ còn 2 lần/năm. Trong thời gian
này
Biotronik đã chuyển từ các bình tụ điện bằng Aluminium (Al, nhôm) sang
loại bằng Tantalum. Theo Lau (
PACE
2016) bình tụ điện Tantalum không cần tái tạo nhiều. Nhưng Biotronik
vẫn tiếp tục 4 lần/năm để cho bình tụ điện
và pin
được hoàn hảo hơn và
sẵn sàng nạp điện khi cần. Trong khi đó các công ty khác, ngay cả công
ty dùng bình tụ điện Al (đúng ra cần được tái tạo thường xuyến, 4
lần/năm), đã giảm xuống còn 3 rồi 2 lần/năm để có thể tăng thời gian
hoạt động.
Có
nhiều bạn chưa nghe đến tái tạo sẽ giúp pin. Trong các thế hệ ICD xưa,
có một số máy thường tái tạo mỗi quý, nhưng khi điện thế pin giảm xuống
dưới một mức quy định, thì sẽ chuyển sang tái tạo mỗi tháng.
Nếu
không phải là tái tạo vì pin, thì làm sao giải thích? Ngoài ra, sau đó
khi điện thế pin giảm xuống một mức thứ hai, thì sẽ trở lại tái tạo mỗi
quý. Lý do ở đây, là tại vì pin quá yếu rồi, nên đành chịu để cố gắng
có thời gian hoạt động dài!
Căng thắng nhất cho BN là lúc ICD cần phải liên tiếp phát sốc để
phá cơn loạn nhịp. Nạp điện nhanh (bình tụ điện và pin hoạt động tốt
nhờ tái tạo 4 lần/năm) sẽ giúp phát sốc nhanh từ sốc thứ 3 trở
đi, và nhờ vậy phá được cơn
rung thất ác tính cần nhiều sốc tối đa!
Vì số ICD được cấy ở VN nhỏ, chúng tôi chưa có các
thống kê thời gian hoạt động thực tế như với máy tạo nhịp.
Ngoài thời gian hoạt động, điều an toàn quan trọng nhất trong một ICD
là phá được cơn rung thất.
Nếu bạn biết là máy phá rung đang được giới thiệu có xác suất không nhỏ
là không thành công phá
cơn rung thất, bạn có chịu cấy không? Vậy nếu bạn
được
cho chọn lựa giữa máy đã được chứng nhận trong một nghiên cứu lâm sàng
ngẫu nhiên với 1077 BN (nghiên cứu NORDIC ICD) là máy sẽ phá
được 100% các cơn loạn nhịp và một máy chỉ
thành công 93% (nghiên cứu SIMPLE), bạn có muốn đánh cuộc với mạng sống
của mình khi
chọn mày 93%? Điều này nói lên nhu cầu tìm hiểu hiệu
quả phá rung của các ICD.
Trong nghiên cứu
NORDIC ICD
(2015), với kết quả được tóm tắt trong hình ở trên, chương
trình
điều trị được chọn trong vùng VF (rung thất) trong tất
cả các ICD là
8 sốc 40
J. Trong bài này chúng ta chỉ quan tâm nhóm "Without DF test" (nhóm
"With DF
test" có mức thành công thấp là tại vì làm test, không phải do điều trị
khi bị loạn nhịp, vì cũng là 8 sốc 40 J).
Với 8
sốc 40 J
máy đã phá được tất cả các cơn loạn nhip (hàng 5, cột giữa "Without DF
test", 218/218 (100%)).
Một nghiên cứu khác là
SIMPLE
dùng ICD Boston Scientific với lập trình tương tự (số sốc tối đa là
từ 6 - 8 sốc và năng lượng tối đa là từ 31J đến 41J ) chỉ đạt tỷ lệ
thành công 92,8% khi có giới hạn là sốc đầu tiên chỉ được 31J (giới hạn
của nghiên cứu vì muốn dùng được nhiều thế hệ máy phá rung của Boston
Scientific).
Trong nghiên cứu NORDIC ICD rõ ràng là
8 sốc 40 J thành công.
Các ICD khác ở
VN có giới hạn 6 sốc. Và năng lượng tối đa sốc đầu là
35J hay 36J. Cho tới khi có nghiên
cứu với các máy khác đạt được hiệu quả
100%, tại sao bạn lại đánh cuộc với mạng sống của mình!
Ngoài năng lượng và số sốc, không biết
tái
tạo bình tụ điện và pin 4 lần/năm với các ICD Biotronik có
giúp đạt hiệu quả này? Các nghiên cứu về đình trễ sốc đầu
không ảnh hưởng hiệu quả điều trị, đã đưa đến một suy nghĩ là một khi
đã bắt đầu điều
trị
bằng sốc phải điều trị
mạnh
(sốc tối đa),
lâu
(tiếp tục sốc cho tới
khi phá được cơn loạn nhịp, hay hết điều trị) ... và
nhanh (thời gian
giữa sốc ngắn). Nếu đúng, thì mấy ICD chỉ tái tạo 2
hay
3 lần/năm có thể nào đạt 100% được vì mất đi yếu tố thứ 3?
Hình
bên phải là hình cắt ngang các dây điện cực sốc (Ip,
2009) của các
công ty được dùng ở VN. Các dây này là

thế
hệ cũ, nhưng thiết kế
về phương diện dây đồng không thay đổi. Dây
sốc bên trái có
2 dây đồng để nối với mỗi điện cực sốc, 2 dây sốc bên phải chỉ cần 1
dây
đồng. Lý do sự khác biệt là dây sốc bên trái

dùng 2 dây với
2x19 sợi bằng
hợp kim MP35N (hợp kim thường được dùng trong các dây điện cực, và được
dùng trong cuộn dây to ở giữa trong cả 3 dây sốc trong hình), trong khi
các dây bên phải dùng 1 dây 49 sợi DFT (
drawn
filled tuning,
hình ngay bên phải là cắt ngang 1 sợi DFT)
với lõi bạc (Ag). Nhờ lõi bạc dẫn điện rất tốt,
trở kháng các sợi dây đồng thấp. Giải thích sau đây hợi nặng
kỹ
thuật. Các bạn có thể nhảy xuống đoạn sau để có một giải thích "thường
ngày".
Thường trở kháng dây
đồng
DFT (cuộn với 49 sợi) tới cuộn
sốc ở thất trong một dây điện cực 60-65cm là ~ 1-1,5 Ohms. Dây MP35N
dài tương tự có trở kháng ~ 5 Ohms. Trở
kháng
sốc của dây DFT 65 cm của Biotronik ~ 65 Ohms. Vậy là trở kháng sốc
giữa các điện cực
sốc là 65-1.5=63,5 Ohms. Với sốc 36 Joules, khi BN được cấy dây sốc với
dây
đồng DFT, sẽ có 36*63,5/65= 35,2 Joules được phát trong tim để phá
cơn loạn nhịp. Với dây
MP35N, sẽ có 36*63,5/68.5=33,4 J được phát trong tim nên hiệu quả
phá loạn nhịp thấp hơn là trường hợp trước. Năng lượng sốc bị
mất
(0,8 J và 2,6 J) sẽ tạo nhiệt trong các dây điện cực sốc, và được tải
đi qua máu, phí đi phần năng lượng này.

Để
giải
thích vấn đề giảm công hiệu,
chúng tôi xin dùng một thí du dễ hiểu. Bạn có 2 bòng đèn 100 Watt như
trong
hính bên phải. Bạn nối bóng đầu tiền, ở trên, vào điện nguồn
với một
dây điện
với lõi đồng (dây điện gia dụng), loại dây to. Bóng kia, vì hết dây
điện, bạn ứng
biến với dây sắt (dây "kẻm") đã được cuộn một lớp cách điện bên ngoài
để an toàn.
Bạn biết là dây đồng dẫn điện tốt hơn dây kẻm, nhưng thiếu dây đồng,
đành phải ứng biến. Hình bên phải là trong phòng sáng, hai bóng đèn đều
tắt. Bấy giờ bạn hãy tắt các đèn trong phòng, bằng cách bấm vào hình.
Kế
tiếp bấm thêm một lần nữa vào hình để bật 2 bóng đèn lên. Đèn trên được
nối vào điện nguồn bằng dây điện đồng to nên sáng trắng. Đèn dưới vì
dùng
dây
điện sắt nên cháy yếu ớt, đèn chỉ vàng lên, không sáng
trắng được. Nếu
bạn rờ vào dây điện thì dây đồng nguội trong lúc dây sắt thì rất nóng,
chứng tỏ là dây sắt đã làm "mất điện" nhiều nên bóng đèn không sáng
trắng được.
Ánh đèn là tượng trưng cho năng lượng sốc được phát ra trong tim để phá
cơn loạn nhịp. Năng lượng "trong tim" thấp, vì "mất điện" ở dây nối,
thì công hiệu phá loạn
nhịp thấp!
Các
dây sốc
Biotronik là loại DFT, nên năng lượng sốc được truyền qua tim cao
giúp đạt hiệu quả cao. Cấy dây sốc Biotronik sẽ giúp đạt hiệu quả phá
loạn nhịp tốt!
ICD Biotronik mà dùng với dây sốc MP35N của công ty kia, có thể cũng
không đạt được hiệu quả 100%!
Tóm lại chúng tôi giải thích hiệu quả 100% phá các cơn loạn
nhịp của các bộ máy phá rung Biotronik (máy và
dây) là nhờ
- 8 sốc 40J trong vùng rung thất
- dây sốc với các sợi DFT giúp đạt tỷ lệ năng lượng sốc cao
qua các tim để phá các cơn loạn nhịp
- tái tạo pin và bình tụ điện mỗi quý, giúp phát các sốc
nhanh khi bị một cơn loạn nhịp ác tính cần nhiều sốc
- Vì tái tạo nhiều, cần pin với điện lượng cao mới đạt thời
gian hoạt động dài.

Đối
với
các bạn cấy
CRT-D, vì cơ thể đã suy yếu nhiều do suy tim (NYHA
II/III/IV), càng
không nên đánh cuộc!
Bộ máy CRT-D cao cấp nhất của Biotronik là máy Itrevia 7 HF-T QP dùng
dây thất
trái 4 cực và với pin 1,73Ah, lớn nhất ở VN.
Trong tương lai Cty Tâm Thu sẽ chuyển toàn diện sang các máy tạo nhịp
CRT-P và phá rung CRT-D dùng dây thất trái 4 cực để đơn giản hóa thủ
thuật cấy dây thất trái, và giúp BN đạt hiệu quả CRT tốt nhờ có thể
điều chỉnh tạo nhịp thất trái dễ dàng.
Hình
x-quang được dùng trong nền trang web này là một máy Itrevia 7 HF-T QP
đã được
cấy trong một BN với dây thất trái 4 cực Sentus ProMRI OTW L.
Nếu
màn hình bạn nhỏ, không thấy được hình trong nền trang web bên phải,
bạn có thể zoom-out với "Ctrl -" để có thể thấy tất cả nền. "Ctrl +" để
zoom-in sau đó.
Trong hình x-quang, với bộ máy và dây điện cực được
tô màu xanh để thấy rõ hơn, lưu ý bình tụ điện ở phía trái của máy.
Bình tụ điện bằng
Tantalum
nên không để tia x-quang ngang. Đây là bình tụ điện cao cấp, không phải
loại bằng Aluminium cần được tái tạo thường xuyên.

Với các ICD Biotronik, trừ các máy VRT-DX, BS có thể chọn dùng loại
máy thích hợp với dây sốc với phích chuẩn DF-1 hay chuẩn DF-4. Phích
DF-4 là phích trên trong hình bên phải. Bên dưới là phích DF-1.
Youtube video giới thiệu các ưu điểm của phích DF-4 Biotronik:
https://www.youtube.com/watch?v=_bjmcjk1Kak
.
Các phích DF-4 (và phích
IS-4 với các dây điện cực tạo
nhịp thất trái 4 cực) của
Biotronik là thế hệ 3, đã được cải
tiến nhiều để giúp tái sử

dụng
khi thay máy. Chất cách
điện polyurethane (PU) được dùng giữa các nhẫn trên
phích
DF-4 thế
hệ 1 bị
mấy
seal (vòng bít kín trong ổ cắm của máy) đè đế bít kín ổ cắm ở đầu máy,
không cho
chất lỏng trong cơ thể vào các buồng trong ổ cắm của máy với các nhẫn.
Với sức ép của các
seal, PU lâu ngày sẽ "chảy" và thân phích sẽ lưu lại dấu các seal. Đến
kỳ
thay máy, với một bộ seal mới trong ổ cắm của máy mới, các seal mới
không ăn khớp với mấy dấu trên phích sẽ đưa đến ổ cắm không còn kín
chất lỏng.
Nếu chất lỏng vào được đến nhẫn thứ 2 (từ bên phải trong hình trên) thì
sẽ có hiện tượng chập mạch khi phát sốc, có thể làm máy hư. Như vậy
không chỉ phải
thay dây (cần mặt PU phẳng) mà còn phải thay máy mới cấy (chập mạch làm
hư mạch điện phát sốc khi phát sốc), nếu khám phá kịp thời (nghĩa là
không phải xảy ra khi có cơn rung thất ác tính)! Không
khám phá kịp thời, thì khi cần sốc, máy không phát được và sẽ có tổn
thương hay tử vong, và vì có chập mạch sốc không được phát để cứu sống
BN. Lại thêm một
đánh cuộc mà 7-10 năm sau mới biết (sau khi thay máy). Vậy tối
thiểu nên chọn phích DF-4 thế hệ 2.
Các phích DF-4 thế hệ 1 và 2 dùng nhẫn băng MP35N, có thể bị oxy-hỏa,
tăng trở kháng sốc dây điện dẫn đến điện cực sốc. Như chúng
ta đã bàn ở trên,
sự kiện này sẽ giảm tỷ lệ năng lượng sốc được phát trong tim để phá cơn
loạn nhịp. Chất PtIr không bị oxy-hóa sẽ giúp không mất đi thêm năng
lượng sốc trong phích cắm.
Với phích DF-1 không có các sự kiên trên vì các seal nằm trên
phích trên dây. Về trở kháng, thì tiếp xúc từ máy qua nhẫn MP-35N qua
các vít được xiết chặt vào các nhẫn trên phích. Lợi ích có thể cung cấp
máy với ổ cắm DF-1, trong khi các công ty
khác chỉ cung cấp máy cao cấp với ổ cắm DF-4, là các bệnh nhân
đã cấy
máy trước đây, hầu hết với dây sốc với phích DF-1, có thể nâng cấp bộ
máy lên khi thay máy.
Các điện cực tạo nhịp/nhận cảm của Biotronik đều có lớp phủ
fractal Iridium giúp đạt
ngưỡng tạo nhịp thấp (tăng thời gian hoạt động các máy 2 và 3 buồng) và
biên độ sóng cao (tránh nhận cảm lầm sóng T là nguyên nhân nhiều sốc
lầm trong một số BN)
Về sóng cao, ngoài tín hiệu cao từ dây điện cực, cũng cần máy có thể
dùng được các sóng cao. Chúng tôi cũng đã gặp trường hợp BN với bộ máy
Biotronik, thay máy với máy công ty khác và tiếp tục dùng dây cũ, đã bị
sốc vì nhận lầm sóng T vì máy không thể tận dụng sóng cao.
Trường hợp ngược lại dùng máy phá rung Biotronik với dây của
công ty khác, theo kinh nghiệm của chúng tôi, không có vấn đề.
Tóm lại, các bộ máy phá rung Biotronik là các bộ máy có pin lớn để đạt
thời
gian hoạt động dài và các bộ máy (máy và dây điện cực) có mức an toàn
cao và Cty Tâm Thu có
thể đáp ứng yêu cầu của bạn và BS về dây điện cực.
Hỗ trợ ký thuật
Để đạt được thời gian hoạt động dài nhất và điều trị tối ưu, các máy
cần được kỹ thuật viên kinh nghiệm của công ty điều chỉnh thường xuyên.
Nếu bạn đã lâu không có kiểm tra máy, bạn hãy liên lạc với chúng tôi đề
được giới thiệu đến trung tâm kiểm tra máy có sự hỗ trợ trực tiếp của
kỹ thuật viên Cty Tâm Thu.
Khi kỹ thuật viên Cty Tâm Thu kiểm tra máy, nhờ
máy chương trình ghi lại báo
cáo đầy đủ,
sẽ có chuyên viên >20 năm kinh nghiệm với các máy Biotronik xét
lại.
Nếu cần điều chỉnh thêm, kỹ thuật viên sẽ làm việc với bác sỹ
để
bạn trở lại điều chỉnh cho chuẩn.
Tương thích MRI
Các ICD
và CRT-D cao cấp (trừ dòng Iforia 3) đạt tương thích MRI.
- Các dây điện cực tạo nhịp mỏ neo, Solia T, đạt tương thích
MRI 1,5 Tesla toàn thân đến mức SAR 2 W/Kg,m tương thích MRI 3 Tesla
ngoài vùng ngực đến 2 W/Kg.
- Các dây vít xoắn, Solia S, đạt tương thích MRI 1,5 Tesla
toàn thân đến 4 W/Kg, MRI 3 Tesla ngoài vùng ngực đến 2 W/Kg
- Các dây sốc vít xoắn, Linox smart và Protego, đều đạt tương
thích MRI 1,5 Tesla toàn thân đến 2 W/Kg và 3 Tesla ngoài vùng ngực đến
2 W/Kg
- Các dây tạo nhịp thất trái lưỡng cực và 4 cực đều
đạt tương thích MRI 1,5 Tesla toàn thân đến 2 W/Kg.
Với tương thích MRI toàn thân, không có giới hạn thời gian chụp. Khi có
giới hạn chỉ được chụp ngoài vùng ngực, thí có giới hạn chụp 30
phút
phải nghĩ 4 phút. Chúng tôi nghĩ đây chỉ là giới hạn tạm thời cho đến
khi làm xong các test để đạt tương thích toàn thân.
Home Monitoring
Tất cả các máy Biotronik với nhãn -T sau tên, đều có thể tham gia theo
dõi từ nhà
(
Home Monitoring).
Xin xem thêm
bài ở trang sau.
Kết luận
Với thời gian hoạt động dài và mức an toàn cao các
máy phá rung Biotronik xứng đáng được chọn là bạn đông hành các
bệnh nhân VN.
Tái liệu tham khảo
- An toàn tối đa chụp MRI
- các trang quảng cáo trong tập chương trình
- Cty Tâm Thu tại Hội
Nghị
Nhịp Toàn Quốc lần III, Phần I -
các biểu ngữ
- Cty Tâm Thu tại Hội
Nghị Nhịp Toàn Quốc, Lần III, Phần
IIa - các máy tạo nhịp
- Cty Tâm Thu tại Hội
Nghị Nhịp Toàn Quốc, Lần III, Phần
IIb - các máy phá rung ... bài này
- Cty Tâm Thu tại Hội
Nghị Nhịp Toàn Quốc, Lần III, Phần
III - các máy chẩn đoán và liên lạc
- Cty Tâm Thu tại Hội
Nghị Nhịp Toàn Quốc, Lần III, Phần
IV - máy tạo nhịp tạm thời
- Cty Tâm Thu tại Hội
Nghị Nhịp Toàn Quốc, Lần III, Phần
V - bộ máy thăm dò điện sinh lý
- Báo cáo ở
VNHRS2016
Bạn
có thể liên lạc với chúng tôi
qua e-mail về lienlac@tamthuvn.com.
Chúng
tôi sẽ trả lời bạn trong thời gian ngắn nhất. Cám ơn bạn đã ghé thăm
trang web của Tâm Thu và Northwest Signal Processing.
Lượt truy cập:
Cập
nhật:
12/27/2016
Copyright
NWSPI 2016